THÁNH KINH
Fri, 28 November

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN THÁNH KINH
Bài 1: Dẫn Nhập

I. Khái niệm về Thánh Kinh

1. Thánh Kinh là gì?

Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa nói với loài người bằng ngôn ngữ của loài người. Công đồng Va-ti-ca-nô II trong Hiến chế Mặc khải (MK) có khẳng định rằng: “Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã muốn mặc khải chính mình và tỏ cho biết thiên ý nhiệm mầu, nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa Cha, nhờ Chúa Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần vào bản tính Thiên Chúa. Qua việc mặc khải này, Thiên Chúa vô hình, trong tình yêu thương chan hòa, đã ngỏ lời với loài người như với bạn hữu và đến sống với họ để mời gọi và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài” (MK, số 2).

Do đó, cuốn Thánh Kinh không phải là một cuốn giáo khoa thần học, lịch sử hay khoa học. Nó là bức tâm thư Thiên Chúa gửi cho dân được tuyển chọn, nên cần được người tin tiếp nhận với lòng mến. Thật vậy, “trong các Sách Thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp gỡ và trò chuyện với con cái của Ngài, vì trong Lời Thiên Chúa có uy lực và quyền năng lớn lao để mang lại sự nâng đỡ và sức sống cho Giáo hội, đồng thời đem đến cho đoàn con của Giáo hội sức mạnh của đức tin, lương thực của linh hồn, nguồn mạch tinh tuyền và trường tồn của đời sống thiêng liêng. Bởi thế, lời nói sau đây hoàn toàn đúng về Thánh Kinh: “Quả thật, Lời Thiên Chúa luôn sống động và linh nghiệm” (Dt 4,12), có năng lực xây dựng và ban phần gia nghiệp cho tất cả những người đã được thánh hóa” (Cv 20, 32; 1 Ts 2,13) (MK, số 21).

2. Ai là tác giả của Thánh Kinh?

Thiên Chúa là tác giả của Thánh Kinh. Quả vậy, “trong việc biên soạn các Sách Thánh, Thiên Chúa đã chọn những con người và nhờ họ dùng tài năng và công sức, để khi chính Ngài hành động trong con người và qua con người, họ viết ra như những tác giả đích thực tất cả những gì Chúa muốn, và chỉ những điều đó mà thôi”  (MK, số 11). Như vậy có thể nói Thiên Chúa là tác giả chính, còn các tác giả sách Tin Mừng là tác giả phụ. Hay nói như thánh Tô-ma A-qui-nô, Thiên Chúa là tác giả nguyên nhân, còn các thánh sử là tác giả dụng cụ. Mặt khác, “vì tất cả những gì các tác giả được linh hứng đã viết ra, phải được xem là những điều được xác quyết bởi Chúa Thánh Thần, nên phải tuyên nhận rằng Thánh Kinh dạy ta cách chắc chắn, trung thành và không sai lầm về chân lý mà Thiên Chúa đã muốn Thánh Kinh ghi lại để cứu độ chúng ta” (MK, số 11).

3. Bố cục của bộ Thánh Kinh

Thánh Kinh không phải là duy một cuốn sách, mà là một bộ sách. Bộ Thánh Kinh gồm hai phần chính: Cược Ước và Tân Ước. Cựu Ước gồm 46 cuốn, và Tân Ước gồm 27 cuốn.

46 CUỐN CỰU ƯỚC

Ngũ Thư Sách Lịch Sử Sách Văn Chương Sách Ngôn Sứ
Sáng thế (St) Xuất hành (Xh) Lê-vi (Lv) Dân số (Ds) Đệ nhị luật (Đnl)   Giô-suê (Gs) Thủ lãnh (Tl) Rút (R) Sa-mu-en 1 (1 Sm) Sa-mu-en 2 (2 Sm) Các Vua 1 (1 V) Các Vua 2 (2 V) Sử biên niên 1 (1 Sb) Sử biên niên 2 (2 Sb) Ét-ra (Er) Nơ-khe-mi-a (Nkm) Tô-bi-a (Tb) Giu-đi-tha (Gđt) Ét-te (Et) Ma-ca-bê 1 (1 Mcb) Ma-ca-bê 2 (2 Mcb) Gióp (G) Thánh vịnh (Tv) Châm ngôn (Cn) Giảng viên (Gv) Diễm ca (Dc) Khôn ngoan (Kn) Huấn ca (Hc)   I-sai-a (Is) Giê-rê-mi-a (Gr) Ai-ca (Ac) Ba-rúc (Br) Ê-dê-ki-en (Ed) Đa-ni-en (Đn) Hô-sê (Hs) Giô-en (Ge) A-mốt (Am) Ô-va-đi-a (Ôv) Giô-na (Gn) Mi-kha (Mk) Na-khum (Nk) Kha-ba-cúc (Kb) Xô-phô-ni-a (Xp) Khác-gai (Kg) Da-ca-ri-a (Dcr) Ma-la-khi (Ml)

27 CUỐN TÂN ƯỚC

Tin Mừng Công Vụ Tông Đồ Thư của Thánh Phao-lô Thư Chung Khải Huyền
Mát-thêu (Mt) Mác-cô (Mc) Lu-ca (Lc) Sách Công vụ Tông đồ (Cv) Rô-ma (Rm) 1 Cô-rin-tô (1 Cr) 2 Cô-rin-tô (2 Cr) Ga-lát (Gl) Ê-phê-xô (Ep) Phi-líp-phê (Pl) Cô-lô-xê (Cl) 1 Thê-xa-lô-ni-ca (1 Tx) 2 Thê-xa-lô-ni-ca (2 Tx) 1 Ti-mô-thê (1 Tm) 2 Ti-mô-thê (1 Tm) Ti-tô (Tt) Phi-lê-môn (Plm) Gia-cô-bê (Gc) 1 Phê-rô (1 Pr) 2 Phê-rô (2 Pr) 1 Gio-an (1 Ga) 2 Gio-an (2 Ga) 3 Gio-an (3 Ga) Giu-đa (Gđ)   Sách Khải huyền (Kh)
Gio-an (Ga)   Thư Híp-ri (Do Thái)    

Toàn bộ cuốn Thánh Kinh:

– được viết trong khoảng thời gian hơn 1000 năm.

– được viết bởi nhiều tác giả nhân loại khác nhau và ngôn ngữ khác nhau như tiếng Híp-ri, A-ram và Hy-lạp.

– được trình bày dưới nhiều thể văn khác nhau:

+ Thần thoại
+ Lịch sử
+ Lề luật
+ Sấm ngôn
+ Truyện ngắn
+ Tầm nguyên luận
+ Thi phú
+ Tin mừng
+ Thư
+ Khải huyền và nhiều thể loại khác

Cuốn Thánh Kinh không phải là một cuốn sách giáo khoa thần học, lịch sử hay khoa học. Nó là bức tâm thư Thiên Chúa gửi cho dân được tuyển chọn, nên cần được người tin tiếp nhận với lòng mến. “Giáo hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng vụ thánh, Giáo hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu. Giáo hội đã và vẫn luôn coi Thánh Kinh cùng với Thánh Truyền như là quy luật tối thượng của đức tin, bởi vì là sách được Thiên Chúa linh hứng và được ghi chép một lần cho mãi mãi. Thật vậy, trong các Sách Thánh, Cha trên trời âu yếm đến gặp gỡ và trò chuyện với con cái của Ngài, vì trong Lời Thiên Chúa có uy lực và quyền năng lớn lao để mang lại sự nâng đỡ và sức sống cho Giáo hội, đồng thời đem đến cho đoàn con của Giáo hội sức mạnh của đức tin, lương thực của linh hồn, nguồn mạch tinh tuyền và trường tồn của đời sống thiêng liêng. Bởi thế, lời nói sau đây hoàn toàn đúng về Thánh Kinh: “Quả thật, Lời Thiên Chúa luôn sống động và linh nghiệm” (Dt 4,12), có năng lực xây dựng và ban phần gia nghiệp cho tất cả những người đã được thánh hóa” (Cv 20, 32; 1 Ts 2,13) (MK, số 21).

BÀI 2: ĐỊA LÝ THÁNH KINH

I. DẪN NHẬP

Trong bài học đầu tiên, chúng ta đã cùng nhau tìm hiểu khái niệm Thánh Kinh là gì. Hôm nay, chúng ta cùng khám phá Địa lý Thánh Kinh. Để bắt đầu, xin hỏi cộng đoàn, khi nói đến Địa lý Thánh Kinh, cộng đoàn nghĩ về mảnh đất nào? Nhiều người trong chúng ta nghĩ ngay đến Béth-le-hem, nơi Chúa Giê-su sinh ra, hay Ga-li-lê, nơi Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ, hay Giê-ru-sa-lem, nơi Chúa Giê-su kết thúc sứ vụ, với biến cố chết và phục sinh. Hôm nay, chúng ta không dừng lại ở những địa danh quen thuộc này mà chúng ta nhìn vào một miền đất rộng lớn hơn, tổng quát hơn để qua đó chúng ta khám phá ra Thiên Chúa, Đấng vô hạn đã hạ cố bước vào thế giới hữu hạn bao gồm lịch sử và địa lý của con người.

Trong bài học hôm nay, chúng ta tìm hiểu những câu hỏi: Tại sao cần tìm hiểu Địa lý Thánh Kinh? Thế giới Thánh Kinh bao gồm những vùng đất nào? Đâu là những đặc tính của những vùng đất ấy? Những mảnh đất ấy có tầm quan trọng thế nào đối với chúng ta?

II. NỘI DUNG

1. Tại sao cần tìm hiểu Địa lý Thánh Kinh?

– Mặc khải Thánh Kinh dành cho mọi người thuộc mọi thời đại, nhưng được ban trước tiên cho những con người sống trong những nơi và những thời nhất định.

– Ví dụ: Chúng ta nhìn vào bản đồ cuộc hành trình của Ab-ra-ham. Vào khoảng 2500, Chúa gọi Ab-ram từ thành Ur đến miền đất Chúa sẽ chỉ cho. Ông ra đi, xuất phát từ thành Ur (St 11:31) băng qua Ba-by-lon, Ma-ri, Kha-mát, Đa-mát, Khép-rôn và dừng chân tại Mem-phis (St 12,10-20).  Khi Sa-ra chết, Ab-ra-ham đã mua từ người Khết một mảnh đất và ngôi mộ, trong đó Sa-ra được chôn cất (St 23). Tại mảnh đất đó, Ab-ra-ham cũng được chôn cất cùng với vợ mình (St 25,10).

– Chính những hoàn cảnh cụ thể về con người, nơi và thời này đã mặc cho mặc khải một bộ mặt nhân loại cụ thể. Sự hiểu biết về địa lý và khung cảnh lịch sử sẽ giúp ta hiểu thêm bộ mặt nhân loại này, và qua đó lãnh hội được sứ điệp chứa đựng trong Thánh Kinh (DNTHTK, “Đất” CƯ II).

2. Thế giới Thánh Kinh gồm những miền đất nào và đâu là những đặc tính của chúng?

Khi nói đến địa lý Thánh Kinh, đặc biệt là Thánh Kinh Cựu Ước, chúng ta phải biết đến hai bản đồ trọng tâm: Bản đồ vùng Cận Đông, hay ngày nay gọi là Trung Đông và Bản đồ miền Đất hứa Canaan, và ngày nay gọi là Pa-lét-tin.

https://www.tonggiaophanhanoi.org/wp-content/uploads/2023/12/ban-do-dia-danh-thanh-kinh-300x198.jpg 300w" />(Bản đồ 1 trích nguồn: https://augustino.net/ban-do-dia-danh-trong-kinh-thanh)

Trước tiên, chúng ta nhìn vào bản đồ thứ nhất. Chúng ta thấy khu vực có liên quan nhiều đến lịch sử Cựu Ước là vùng tiếp giáp giữa ba châu: Á, Âu, Phi. Đây chính là vùng Cận Đông. Vùng Cận Đông kéo dài từ Ai Cập ở phía Nam đến Tiểu Á ở phía Bắc, và từ Ba-tư ở phía Đông, và đến châu Âu ở phía Tây.

a. Khu vực phía Nam: Ai-cập

– Ai-cập nằm tại chóp đỉnh phía Đông Bắc của Châu Phi, sát biên giới Xi-nai và Pa-lét-tin, được bao quanh bởi các sa mạc ở phía Đông và phía Tây. Thủ đô khi thì ở phía Bắc với cái tên Memphis, khi thì ở phía Nam với cái tên Thê-bê.

– Mạng sống của Ai Cập là dòng sông Nile, dài khoảng 6000 km, nhờ đó một nền văn minh đã phát sinh từ 3000 năm tCn, Ai-cập đã là một dân tộc dưới quyền cai trị của các triều đại Pha-ra-ô, những người tự coi mình là thần minh.

– Ai-cập là mảnh đất gắn liền với lịch sử Dân Thiên Chúa, bắt đầu từ Ab-ra-ham. Khoảng 2000 năm tCn, Ab-ra-ham đã đến Ai-cập (St 12,10-20). Rồi đến Giu-se, con ông Gia-cóp, bị anh em mình bán sang Ai-cập (St 39), và từ đó một dân tộc lớn mạnh được hình thành.

b. Khu vực phía Bắc

– Khu vực này nằm ở vùng cao nguyên Tiểu Á. Sắc dân hùng mạnh nhất của khu vực này là dân Khết (Hittites). Khết là một dân thuộc gốc Ấn-Âu đã đi vào vùng Tiểu Á khoảng 2000 tCG. Chính nơi mảnh đất này, Ab-ra-ham và Sa-ra vợ ông được chôn cất (x. St 23-25).

c. Khu vực phía Đông: Lưỡng Hà Địa (Mesopotamia)

– Khu vực phía Đông nằm giữa hai con sông Tigris và Êuphrát nên được gọi là Lưỡng Hà Địa (tiếng Hy Lạp, Mesopotamia, có nghĩa là giữa những con sông).

– Khu vực này rất phì nhiêu vì nhờ phù sa của hai con sông lớn. Khu vực này còn có hình lưỡi liềm nên cũng được gọi là Vùng Lưỡi Liềm Trù Phú. Vùng đất này được chiếm đóng bởi nhiều đế quốc khét tiếng như: Sy-ri-a, Assy-ri-a, Ba-by-lon, Ba-tư, Hy-lạp, và Rô-ma.

– Ngày nay, vùng Lưỡi Liềm Trù Phú được phân chia từ Đông qua Tây bởi: I-rắc, Sy-ri-a, Lê-ba-non, Gio-đan và Ít-ra-en.

d. Địa lý vùng Pa-lét-tin

Chúng ta đến với bản đồ thứ hai. Bản đồ đất Ca-na-an, ngày nay gọi là Pa-lét-tin, hay chúng ta quen gọi là “đất thánh”, một dải bề mặt trái đất tiếp giáp Địa Trung Hải ở điểm tận cùng phía tây nam lục địa châu Á.

https://www.tonggiaophanhanoi.org/wp-content/uploads/2023/12/ban-do-dia-danh-thanh-kinh-2-188x300.jpg 188w" />(Bản đồ 2 trích nguồn: https://augustino.net/ban-do-dia-danh-trong-kinh-thanh.)

– Pa-lét-tin nằm trong vùng Lưỡi Liềm Trù Phú, và được ví như một hành lang nối kết Á, Âu và Phi Châu. Hành lang này có nhiều tên. Trước khi người Do Thái đến cư ngụ, miền đất này được gọi là Ca-na-an. Sau đó đổi tên thành Ít-ra-en. Tên gọi Ít-ra-en ám chỉ đến toàn bộ đất nước trước khi bị phân chia. Sau cái chết của vua Sa-lô-môn (921/922 tCn), Ít-ra-en bị phân tán, thì tên gọi Ít-ra-en ám chỉ cho vương quốc miền Bắc, còn vương quốc miền Nam có tên là Giu-đa. Khi người Hy-lạp đô hộ thì đổi thành Pa-lét-tin (chỉ vùng đất của người Phi-lit-tinh nằm dọc theo bờ biển tây nam Ca-na-an).

– Dưới thời đế quốc Rô-ma, hoàng đế Rô-ma A-dri-a-nô xóa tên Giu-đa trong thuật ngữ chính trị và gọi vùng đất này là tỉnh Sy-ria Pa-lét-tin, ngày này trở thành Pa-lét-tin.

– Miền đất của Pa-lét-tin có diện tích khoảng 25.000 km2, chiều dài nhất 240 km, chiều rộng từ 40 đến 150 km, có thể được chia thành 4 phần chính từ Tây sang Đông: đồng bằng ven Địa Trung Hải, cao nguyên trung phần, thung lũng sông Gio-đan, và cao nguyên bên kia sông Gio-đan.

III. KẾT LUẬN

Giữa muôn vàn dân tộc, Thiên Chúa đã chọn Ít-ra-en làm dân riêng. Thiên Chúa đặt dân này nằm ở nút giao của thế giới. Nó là hành lang của thế giới. Trong thế giới Cận Động cổ, các ngả đường thương mại cũng như chính trị giữa châu Phi, Á và Âu đều ngang qua mảnh đất này.

Vượt trên tầm quan trọng về kinh tế và chính trị, miền đất Ít-ra-en hay còn gọi là Pa-lét-tin, mang một ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc. Thiên Chúa đặt Ít-ra-en trên nút giao của thế giới, để chính dân ấy trở thành ánh sáng cho muôn dân. Muôn dân có thể chứng kiến một dân được chúc phúc hay bị nguyền rủa bởi Thiên Chúa phụ thuộc vào việc họ sống tuân phục hay bất tuân Lề luật của Người.

Chính nơi mảnh đất này, Thiên Chúa đã đến và cắm lều ở giữa nhân loại. Tại Beth-le-hem, miền Nam nước Ít-ra-en, Thiên Chúa đến để ngụ ở giữa loài người nơi Hài Nhi Giê-su. Tại “Ga-li-lê của các dân tộc”, Chúa Giê-su đã bắt đầu sứ vụ. Và cũng chính tại Ga-li-lê, sau biến cố khổ nạn tại Giê-ru-sa-lem, Đấng Phục Sinh đã hẹn gặp các môn đệ và sai các ông đến với muôn dân. Chính từ Ga-li-lê, Tin Mừng cứu độ đã khởi đi, và Tin Mừng ấy đang được lan tỏa đến tận cùng thế giới.

I. DẪN NHẬP

Sau khi khám phá các miền đất Thánh Kinh, hôm nay chúng ta tìm hiểu tổng quan lịch sử Thánh Kinh. Tại sao chúng ta cần tìm hiểu lịch sử Thánh Kinh?

Việc tìm hiểu lịch sử về các thời của Thánh Kinh đóng vai trò rất quan trọng trong việc khám phá ra ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa nói với con người trong ngôn ngữ và lịch sử của họ. Lời Chúa được lồng vào thời gian và không gian của dân tộc được Ngài tuyển chọn, vào những nhu cầu và khả năng lãnh hội của họ. Khi đọc Thánh Kinh, chúng ta đừng quên rằng mỗi từ, mỗi câu đều được viết cho những người đã sống cách chúng ta hai, ba ngàn năm trước. Về hầu hết mọi mặt, những con người này sống, làm việc và suy nghĩ rất khác với chúng ta. Họ không có những kiến thức khoa học như chúng ta có hiện nay.[1] Thế nên, với cố gắng chân thành, việc tìm hiểu những lối suy nghĩ của ngày xưa sẽ giúp ta lọc được những gì là quan yếu và trường tồn trong sứ điệp của Thánh Kinh.[2]

Giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu lịch sử Dân Thiên Chúa.

II. LỊCH SỬ DÂN THIÊN CHÚA

Khi tìm hiểu nguồn gốc và lịch sử các dân tộc, có lẽ một câu hỏi chúng ta thương hay đặt ra: Tại sao Thiên Chúa lại chọn Ít-ra-en làm dân riêng của Chúa?

Công đồng Va-ti-ca-nô II, trong Hiến chế tín lý về Giáo hội Lumen Gentium, khẳng định rằng: “Vào mọi thời và trong mọi dân tộc, bất kỳ ai kính sợ Thiên Chúa và thực thi đức chính trực đều được Người tiếp nhận (x. Cv 10,35). Tuy nhiên, Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu độ con người không như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài trong thánh thiện. Vì thế, Ngài đã chọn dân Ít-ra-en làm dân riêng, đã thiết lập giao ước, dạy bảo họ dần dần bằng cách bày tỏ chính mình và ý định của mình qua lịch sử, đồng thời thánh hóa họ để dành riêng cho mình.”[3]  Bởi vậy, đối với Ít-ra-en, nền tảng đức tin của họ không phải là Thiên Chúa mạc khải chính mình trong thiên nhiên, nhưng là Thiên Chúa Đấng đã cứu họ ra khỏi Ai-cập; Thiên Chúa là Đấng can thiệp vào trong chính lịch sử của họ.

Sách Sáng thế từ chương 1-11 mô tả thời kỳ trước khi Thiên Chúa kêu gọi và chuẩn bị cho Người một dân tộc khởi đi từ tạo dựng vũ trụ, con người, sự sa ngã, tội lỗi và phân tán. Lịch sử Dân Thiên Chúa có thể nói khởi đi từ Ab-ra-ham. Chúng ta có thể chia lịch sử 2000 năm từ Ab-ra-ham cho tới Đức Giê-su giáng sinh thành 4 thời kỳ và mỗi thời kỳ cách nhau khoảng 500 năm được tóm gọn trong biểu đồ dưới đây.

Năm trước Công nguyên 2000 tCn 1500 tCn 1000 tCn 500 tCn
Thời kỳ Tuyển chọn Xuất hành Vương triều Lưu đầy
Nhân vật điển hình Ab-ra-ham Mô-sê Đa-vít I-sai-a
Tầng lớp lãnh đạo Ít-ra-en trong từng thời kỳ Các tổ phụ Các ngôn sứ Các vua Các tư tế

1. Thời các tổ phụ

Truyền thống Thánh Kinh, dưới hình thức bình dân, đã lưu lại những kỷ niệm về nguồn gốc của dân Ít-ra-en và làm nổi bật lên vài khuôn mặt vĩ đại: Ab-ra-ham, I-xa-ác, Gia-cóp và các tổ tiên chi tộc Ít-ra-en (St. 12-50). Các tổ phụ sống giữa những người Sê-mít bán du mục, sống dưới lều, khi thì từ nơi này qua nơi kia tìm đồng cỏ cho đàn gia súc, đi tận sang Ai Cập khi gặp hạn hán. Là du mục, các tổ phụ có ý thức về tinh thần thống nhất của gia đình hay của thị tộc. Phong tục của các tổ phụ về luật lệ và về xã hội là phong tục của Cận Đông thời đó.

2. Thời xuất hành

400 năm sau khi Giu-se cùng với những người đương thời qua đời bên Ai-cập, Dân Do-thái trở thành một dân lớn mạnh và là một mối đe dọa đối với Ai-cập. Thế nên, vua Ai-cập là Pha-ra-ô Ram-xết II đã buộc người Do Thái phải khổ sai để xây thành đô (Xh 1,11). Người Ai-cập cưỡng bách con cái Ít-ra-en lao động cực nhọc. Con cái Ít-ra-en rên siết trong cảnh nô lệ. Họ ca thán, và tiếng họ kêu từ cảnh nô lệ đã thấu tới Thiên Chúa. Thiên Chúa đã nghe tiếng họ than van và Thiên Chúa nhớ lại giao ước của Người với các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp (x. Xh 1,23-25). Thiên Chúa gọi Mô-sê để giải cứu dân Ít-ra-en khỏi ách nô lệ Ai-cập và dẫn họ đến miền Ca-na-an.

Sau khi Mô-sê qua đời, Chúa đã chọn Giô-suê làm thủ lãnh để dẫn Ít-ra-en vào chiếm đất Ca-na-an. Phải trải qua 200 năm chiến tranh, nổi dậy, thâm nhập hòa bình, liên minh giữa các chi tộc mới dần tạo nên được một dân tộc Ít-ra-en. Đây thực sự là bước khởi đầu của một dân tộc gồm 12 chi tộc.

3. Thời quân chủ

Sau khi tràn vào Ca-na-an, Ít-ra-en từ một liên minh các chi tộc, đã trở thành một quốc gia với việc phong vương cho Sa-un, có nền văn hóa phát triển. Đa-vít được xem như là một vị vua lý khuôn mẫu của Ít-ra-en. Dưới thời Đa-vít và con ông là Sa-lô-mon, Ít-ra-en là một quốc gia thống nhất và có nền văn hóa phát triển cao độ.

Sau khi Sa-lô-mon qua đời, khoảng năm 931tCn cuộc ly khai Bắc – Nam xảy ra: vương quốc miền Bắc được gọi là Ít-ra-en và vương quốc miền Nam được gọi là Giu-đa. Giữa hai vương quốc và các nước xung quanh thường xuyên xảy ra chiến tranh. Bối cảnh này dẫn chúng ta đến thời lưu đày và hậu lưu đày.

4. Thời lưu đày và hậu lưu đày

Năm 721 tCn Vương quốc miền Bắc thất thủ trước đế quốc Át-sua hùng mạnh. Sau Át-sua, đế quốc Ba-by-lon chiếm ưu thế trong miền Cận Đông. Na-bu-cô-đô-nô-xô chỉ huy quân đội đánh chiếm Giê-ru-sa-lem và bắt vua Gio-a-kin của Giu-đa sang Ba-by-lon năm 598. Sau đó, vào năm 587, Na-bu-cô-đô-nô-xô san bằng Giê-ru-sa-lem và thiêu hủy Đền thờ, bắt tất cả đi lưu đầy Ba-by-lon.

Đúng như lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a tiên báo: Tất cả xứ này sẽ nên chốn điêu tàn đổ nát và các dân ấy sẽ phải làm tôi vua Ba-by-lon trong bảy mươi năm. Nhưng khi mãn bảy mươi năm, Ta sẽ viếng thăm để trừng phạt vua Ba-by-lon và dân ấy – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – vì tội lỗi của chúng, cũng như trừng phạt xứ Can-đê và biến nó thành chốn điêu tàn vạn cổ. (Gr 25,11-12).

Khoảng năm 539, đại đế Ky-rô, nước Ba-tư đã đánh bại Ba-by-lon, và ký sắc chỉ cho phép người Do-thái trở về quê nhà. Sau thời lưu đày, Giu-đa chỉ còn là một quốc gia rất nhỏ bé nằm trên vùng đất xung quanh Giê-ru-sa-lem. Đất nước không còn độc lập, bị đặt dưới quyền cai trị của các thống đốc người Ba-tư và được các thượng tế lãnh đạo về mặt tôn giáo. Thực hành tôn giáo dựa trên kinh Torah (sách Luật của Mô-sê).

Vào khoảng 332 tCn, A-lê-xan-đê chiếm vùng Cận Đông và bắt đầu cai trị. Ông thực hiện chính sách Hy-lạp hóa toàn vùng Cận Đông, thế nên người Do-thái chịu ảnh hưởng của văn hóa và tôn giáo Hy-lạp. Trong thời kỳ này, ngươi Do-thái, vì trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa, đã chịu nhiều bách hại và đã đấu tranh đòi độc lập, điển hình là những cuộc đấu tranh của anh em nhà Ma-ca-bê từ những năm 175 đến 63 tCn.

Năm 63 tướng Pompê chiếm Giê-ru-sa-lem và thiết lập ách thống trị của người Rô-ma. Cuối cùng Rô-ma trao quyền cho một thủ lãnh địa phương là Hê-rô-đê Cả. Ông này thay mặt người Rô-ma khiểm soát vùng Pa-lét-tin mãi cho đến khi Đức Giê-su giáng sinh.

III. TÓM KẾT

Lịch sử của Ít-ra-en không thuần tuý là lịch sử của một dân tộc nhưng là lịch sử cứu độ. Thiên Chúa can thiệp vào lịch sử của muôn dân muôn nước thông qua Ít-ra-en. Do đó, lịch sử của Ít-ra-en cũng là lịch sử của chúng ta. Lịch sử này được tóm gọn trong lời mở đầu của Thư Do-thái: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ;2 nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử” (Dt 1,1-2). Thật vậy, Ngài đã sai Con của Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng soi sáng mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ biết những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Ga 1,1-18).[4] Điều này cho ta thấy biến cố Nhập thể là hành động tột đỉnh của quá trình mạc khải, đó là hình thức tuyệt hảo nhất mà Thiên Chúa bước vào lịch sử của con người.[5]

[1] Lawrence Boadt, Dẫn Vào Cựu Ước, chuyển ngữ Lm. Simon Nguyễn Phú Cường và J.B. Phạm Đức Sử, Nxb Đồng Nai, 2021, tr. 28

[2] Lawrence Boadt, Dẫn Vào Cựu Ước, chuyển ngữ Lm. Simon Nguyễn Phú Cường và J.B. Phạm Đức Sử, Nxb Đồng Nai, 2021, tr. 29.

[3] Công Đồng Vaticanô II (1965), Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 9.

[4] Công Đồng Vaticanô II (1965), Hiến chế tín lý về mặc khải Thiên Chúa Dei Verbum, số 4.

[5] Nguyễn Phúc Thần, Dẫn Vào Kinh Thánh, tr. 79.

Bài 4  TỔNG QUAN CÁC SÁCH CỰU ƯỚC

Trong bài học đầu tiên chúng ta đã đề cập đến cuốn Thánh Kinh Công giáo gồm hai phần lớn: Cựu ước và Tân ước. Hôm nay chúng ta cùng nhau tiềm hiểu tổng quan các sách Cựu ước.

1. Tại sao lại gọi là “Cựu ước”?

Toàn bộ cuốn Thánh Kinh là sách Giao ước. Đó là Giao ước mà Thiên Chúa đã thiết lập với dân Người, một giao ước được lập đi lập lại nhiều lần, và cuối cùng được hoàn tất nhờ máu đổ ra của Đức Ki-tô. Do đó, thuật ngữ “Cựu ước” có ý nói về Giao ước cũ. Và từ “Cựu”, ở đây, không hàm ý là cũ kỹ và phải bỏ đi. Từ “cựu” được sử dụng để phân biệt giữ Giao ước cũ (2 Cr 3,14) và Giao ước mới (2 Cr 3,6). Hai Giao ước nối tiếp với nhau. Tân ước được tiềm tàng trong Cựu ước, và Cựu ước được tỏ hiện trong Tân ước. Thật vậy, “Nhiệm cục Cựu ước được sắp đặt với mục đích chính yếu là để chuẩn bị cho ngày xuất hiện của Chúa Ki-tô, Đấng Cứu độ muôn loài, ngày của Vương quốc Đấng Mê-si-a, được loan báo qua các ngôn sứ và được biểu thị bằng nhiều hình ảnh khác nhau” (Hiến chế Mặc khải, số 14-15). Thế nên, chúng ta phải nhìn nhận giá trị tự thân của Cựu ước, ngay cả khi nó chỉ đạt đến ý nghĩa trọn vẹn trong ánh sáng của Tân ước, và bao gồm việc lời hứa chỉ được thực hiện hoàn mỹ nơi Đức Ki-tô. Cựu ước vẫn luôn là lời thực sự của Chúa, phải được chấp nhận và tôn kính.

2. Tại sao Cựu ước lại có 46 cuốn, và các sách cổ xưa khác lại không được xem là Sách Thánh?

Chúng ta biết rằng Thánh Kinh Do-thái gồm 39 cuốn. Thánh Kinh Cựu ước Công giáo gồm 46 cuốn. Cuốn Cược ước của chúng ta nhiều hơn cuốn Thánh Kinh Do-thái 7 cuốn, đó là những cuốn sách: Ma-ca-bê quyển 1 và 2, Giu-đi-tha, Tô-bi-a, Ba-rúc, Huấn ca, sách Khôn ngoan. Các Giáo hội gọi việc chọn lựa những sách này là quy điển. Quy điển bao gồm những tác phẩm được một giáo hội hay một nhóm giáo sĩ có thẩm quyền công nhận có chứa đựng mặc khải của Thiên Chúa.

Cựu ước được phân ra thành bốn phần khác nhau:

+ Sách Ngũ thư

+ Sách Lịch sử

+Sách Văn chương

+ Sách Ngôn sứ

3. Bức họa toàn cảnh Cựu ước[1]

a. Ngũ thư

Ngũ thư gồm 5 cuốn sách đầu tiên của bộ Thánh Kinh, đó là sách Sáng thế, Xuất hành, Lê-vi, Dân số và Đệ nhị luật. Sách Sáng thế mô tả thời kỳ trước khi Thiên Chúa kêu gọi và chuẩn bị cho Người một dân tộc khởi đi từ thuở tạo dựng ban đầu cho đến thời các tổ phụ. Sách Xuất hành phác hoạ những hành động đầy quyền uy của Thiên Chúa giải thoát Ít-ra-en khỏi tay Ai-cập và ban cho họ Giao ước về lề luật. Sách Lê-vi mô tả những điều khoản của Giao ước, trong sách Dân Số thêm vào một số luật lệ khác và tiếp tục câu chuyện của Ít-ra-en thời kỳ sa mạc. Đệ nhị luật được xem như ghi lại những diễn từ của Mô-sê đào sâu và tóm kết ý nghĩa Giao ước cho dân Ít-ra-en sau này trong dòng lịch sử.

b. Các sách Lịch sử

Sau phần Ngũ thư là các sách Lịch sử. Các sách Lịch sử kể lại việc Ít-ra-en khám phá và sống Giao ước ở miền Đất hứa. Sách Giô-suê mô tả cuộc chinh phục xứ Ca-na-an, sách Thủ lãnh mô tả việc định cư và cuộc đấu tranh sinh tồn của Ít-ra-en trên miền đất mới. Sa-mu-en 1 và 2 là thời kỳ Ít-ra-en thèm muốn có vua và sự xuất hiện của hai vị vua đầu tiên là Sa-un và Đa-vít. Sách các Vua 1 và 2 kể lại chuyện Ít-ra-en đã bội tín với Đức Chúa như thế nào từ các triều sau Đa-vít cho đến khi kết thúc thời quân chủ vào khoảng năm 587 tCn. Tất cả sáu cuốn sách này có văn phong và sứ điệp tương tự như Đệ nhị luật. Các sách này đều đưa ra một bài học nhất quan: chỉ ra sự bất trung của Ít-ra-en với Giao ước và cảnh báo sự tàn phá sắp xảy đến.

Sau cuộc tàn phá Ít-ra-en và lưu đầy năm 587 tCn, sách Sử biên niên 1 và 2 nhìn lại lịch sử Ít-ra-en từ quan điểm của các tác giả Tư tế. Truyền thống này tiếp tục được diễn tả trong sách Ét-ra và Nơ-khe-mi-a.

Sách Rút kể chuyện một phụ nữ trung tín vào thời các thủ lãnh. Ét-te thuật lại chuyện một nữ hoàng Do-thái tín trung trong vương triều Ba-tư thế kỷ V. Sách Giu-đi-tha nêu chuyện một vị nữ anh hùng đã cứu người Do-thái trong thời kỳ lưu đầy. Sách Tô-bi-a mô tả người Ít-ra-en trung tín sống giữa những người dân bị lưu đầy vào năm 722 tCn ở Át-sua. Tất cả các trình thuật này là những câu chuyện mang tính giáo huấn nhằm nêu bật những phẩm chất tốt đẹp nhất của những người Do-thái đạo đức. Cuối cùng, câu chuyện hậu lưu đầy kết thúc với sách Ma-ca-bê 1 và 2, kể lại cuộc nổi dậy của người Do-thái để giành lại độc lập từ chính quyền Hy-lạp đóng tại Sy-ri.

c. Văn chương

Phần tiếp theo được biết đến như là các sách Văn chương, chứa đựng những suy tư sâu sắc tuyệt vời của người Ít-ra-en về đức tin và cuộc sống. Sách Thánh vịnh cho chúng ta những lời cầu nguyện và những thánh thi được xướng lên trong các buổi phụng tự cá nhân và cộng đồng. Sách Gióp vật lộn với những vấn nạn về đau khổ và sự tốt lành của Thiên Chúa. Các sách Châm ngôn, Giảng viên, Huấn ca và Khôn ngoan của Salomon cung cấp những châm ngôn và tư tưởng hiền triết, còn Diễm ca là một chuỗi những bài thơ tình, hàm ý mô tả tình yêu Thiên Chúa dành cho Ít-ra-en, hôn thê của Người.

d. Ngôn sứ

Sau cùng, các sách ngôn sứ nằm cuối bảng danh sách được chia thành hai phần: các ngôn sứ lớn và các ngôn sứ nhỏ. Sự sắp xếp này dựa trên độ dài của tác phẩm. Các cuốn sách dài như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en và Đa-ni-en là của những ngôn sứ lớn. Phần lớn của sách Đa-ni-en mang văn chương khải huyền, tương tự với sách Khải huyền của thánh Gio-an. Các ngôn sứ nhỏ được gọi là “Mười Hai” trong quy điển Do-thái. Các ngôn sứ này được xếp từ A-mốt, vị ngôn sứ đầu tiên ở thế kỷ VIII tCn, xuống đến Ma-la-khi vào thế kỷ IV tCn.

Tóm lại: Với bức họa toàn cảnh Cựu ước, chúng ta nghiệm thấy một cách rõ ràng công trình cứu độ của Thiên Chúa và đường lối của Người đối xử với chúng ta như lời thánh Phao-lô khẳng định: “Quả thế, tất cả những gì đã được viết ra, đều được viết để dạy dỗ chúng ta, để nhờ kiên nhẫn và được an ủi bởi lời Thánh Kinh, chúng ta có được niềm cậy trông” (Rm 15,4).

Ban Biên soạn Giáo lý Kinh Thánh
Tổng Giáo phận Hà Nội

[1] Xem Lawrence Boadt, Dẫn Vào Cựu Ước, chuyển ngữ Lm. Simon Nguyễn Phú Cường và J.B. Phạm Đức Sử, Nxb Đồng Nai, 2021, tr. 21-23.