THÁNH KINH
Fri, 28 November

 Các Tác Phẩm của Thánh Phaolô

 

1. Cuộc Đời Thánh Phaolô

  1. Gốc Do Thái
  1. Gal. 1: 13-14 Anh em đã nghe nói về cách sống của tôi trước kia trong đạo Do Thái; tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa một cách tàn bạo, và cố gắng tiêu diệt Hội Thánh thế nào. Và tôi đã tiến xa trong Do Thái giáo hơn nhiều người cùng lứa tuổi với tôi trong dân tôi; tôi đã nhiệt thành cách cực đoan với các truyền thống của cha ông”
  2. Phil. 3: 5-6 “Được cắt bì đúng ngày thứ tám, chủng tộc Israel, thuộc chi tộc Bengiamin, một người dòng dõi Hipri (Do Thái); tuân giữ Lề Luật như một Biệt Phái; vì nhiệt thành nên tôi đã khủng bố Hội Thánh; còn về sự công chính theo Lề Luật, thì không ai có thể chê trách được tôi.”
  3. Từ tiểu sử của ngài trong các Thánh Thư và TĐCV, chúng ta biết rằng Thánh Phaolô trước kia là người đạo Do Thái. Không những chỉ là người đạo Do Thái mà còn là một Biệt Phái. Không những là Biệt Phái mà còn là Biệt Phái thuộc nhóm Shammaite, một nhóm nhiệm nhặt nhất trong các nhóm. Về “Điều mà Thánh Phaolô thật sự nói” thì T.N. Wright lý luận rằng “lòng nhiệt thành” mà Thánh Phaolô thường nhắc đến về mình cho thấy ngài thuộc nhóm nào. Dù trong TĐCV 22: 3 Thánh Phaolô trình bày rằng ngài được giáo dục dưới thầy Gamaliel. Nhưng trong TĐCV 5: 34 tt, thì Gamaliel có vẻ là một người thuộc nhóm Biệt Phái Hillelite, là nhóm đề ra chính sách “sống và để cho sống”. Hãy để cho phái Hêrôđê, Philatô, người Rôma cai trị thế giới. Miễn là người Do Thái được phép giảng dạy và thực hành Lề Luật (Torah). Trái lại, nhóm Biệt Phái Shammaite tin rằng Lề Luật đòi buộc phải giải phóng dân Israel. Đối với Phaolô cũ, cũng như với nhiều người Do Thái nhiệt thành, thì lời hứa tiên tri chưa được thể hiện, đền thờ chưa được xây lại đúng cách, cuộc lưu đầy cũng chưa chấm dứt. Thánh Phaolô muốn Chúa cứu chuộc dân Israel, chứng thực cho Israel bằng cách phục hồi nó. Lòng nhiệt thành với Thiên Chúa, với Lề Luật đòi hỏi phải bách hại Hội Thánh vì các Kitô hữu đã không thi hành Lề Luật cách nghiêm chỉnh làm cho việc phục hồi Israel bị trì hoãn. Tuy nhiên, chúng ta có thể lý luận rằng có lẽ lúc đầu Thánh Phaolô đã theo học thầy Gamaliel, rồi bỏ theo nhóm Biệt Phái Shammaite. Bởi vì lòng nhiệt thành với Thiên Chúa, với Lề Luật đòi buộc ngài không những chỉ hăng say giữ Lề Luật, mà còn bắt những người Do Thái khác phải giữ Lề Luật như ngài. Lòng nhiệt thành này biện minh cho việc ngài bách hại Hội Thánh.

 

  1. Ảnh Hưởng nền Giáo Dục Hy Lạp ( Marion L. Soards, The Apostle Paul)
  1. Sinh Quán và các Tác Phẩm

Theo sách TĐCV thì ngài sinh ra ở ngoài vùng Palestine trong thành phố thương mại La-Hy Tarsô. Các tác phẩm của ngài cho thấy ngài thông thạo về đọc sách, suy nghĩ, lý luận và diễn tả theo nền giáo dục gốc Hy Lạp của ngài. Các Thư của ngài đầy những điều tỏ lộ chân tướng và đánh dấu di sản Hy Lạp của ngài. Từ những trích dẫn Cựu Ước của ngài người ta thấy rằng thánh Phaolô đọc Thánh Kinh theo bản Hy Lạp, bản Bẩy Mươi. Ngài tự gọi mình là Phaolô (tiếng Hy lạp là Paulos), chứ không phải Saulô (tiếng Do Thái là Saulô hay Saulê).

  1. Những phương pháp văn chương:

- Ngài có một nền giáo dục Hy Lạp và tác phẩm của ngài phản ảnh tu từ Hy Lạp – dùng loại lý luận gọi là “đàm luận hay đả kích (diatribe)”.

- Thường dùng các hình ảnh được rút ra từ nền văn hoá của thành phố (Hy Lạp) và những tư tưởng Hy Lạp như eleutheria - tự do và syeidesis – lương tâm.

- Chú giải Cựu Ước cách ẩn dụ là triết lý và phương pháp giải thích văn chương phổ thông của Hy Lạp (Gal. 4 về các bà Sarah và Hagar).

  1. Gốc Gác Roma
  1. Ngài là một công dân Roma
  2. Quen thuộc với những nền văn hoá La – Hy:
  • Những dụ ngôn của ngài được rút ra từ thế giới thể thao và quân đội La-Hy.
  • Nhìn nhận và bênh vực sự “Vinh-nhục” trong tác phẩm. Thư Thánh Phaolô có mục đích xác nhận và bênh vực quyền làm Tông Đồ của ngài và giáo huấn chân thật của Tin Mừng và mặc khải của Đức Kitô.
  1. Quen thuộc với hệ thống luật lệ Rôma

Rom. 28: 1tt: Thánh Phaolô khiếu nại đến Rôma và Xêdarê

Rom. 28: 30-31: như thói quen của luật Roman, Thánh Phaolô bị giam hai năm, rồi ngài có thể khiếu nại và người ta sẽ quyết định về trường hợp của ngài.

  1. Bản chất và ý nghĩa của cuộc trở lại
  1. Bản chất của cuộc trở lại: Kristen Stendahl và Marion L. Soards lý luận rằng bản chất của kinh nghiệm được thấy Chúa Phục Sinh của Thánh Phaolô là một ơn gọi hơn là một cuộc trở lại. Trái lại, T.N. Wright lý luận rằng chúng ta không thể phân biệt giữa ơn gọi và cuộc trở lại, đặc biệt là trong trường hợp của Thánh Phaolô, hai điều này là một.
  2. Từ quan điểm của Thánh Phaolô:

Gal. 1: 15-17 và 1Cor. 15: 3-10: Là một kinh nghiệm thấy Đức Chúa Giêsu Kitô là Đấng bị đóng đinh nhưng được Thiên Chúa chứng thực qua việc Phục Sinh của Người. Từ câu truyện của chính mình, Thánh Phaolô đặt kinh nghiệm của mình như tiếp tục truyền thống tiên tri của ơn gọi của Thiên Chúa.

TĐCV 9: 1-30, 22: 1-21, 26: 1-18 tường thuật kinh nghiệm của Thánh Phaolô là một ơn gọi từ Thiên Chúa như một sự tiếp tục của truyền thống tiên tri.

  1. Ý nghĩa của cuộc trở lại
  • Cuộc trở lại giúp Thánh Phaolô hiểu biết đúng hơn và đầy đủ hơn về những khía cạnh cánh chung của lịch sử cứu độ mà người Biệt Phái thường hiểu. Nói cách khác, điều này cung cấp cho Thánh Phaolô một cái nhìn mới về ơn gọi mới của ngài.
  • Cuộc trở lại thiết lập quyền của Thánh Phaolô, quyền bính và tính đáng tin cậy của các Tông Đồ của Đức Kitô.
  • Kinh nghiệm về trở lại là mặc khải của Đức Kitô cho ngài, làm cho ngài xứng đáng được ngang hàng với các Tông Đồ trong việc giáo huấn và rao giảng.
  • Cuộc trở lại thiết lập sự liên tục của việc làm chứng nhân cho biến cố cứu độ của Đức Kitô: Cái Chết và Phục Sinh của Người.
  • Thánh Phaolô đã học bốn điều từ kinh nghiệm này: Chúa Giêsu vẫn đang sống; Thánh Phaolô có một sứ vụ; Thánh Phaolô đang bách hại Chúa Giêsu; Chúa Giêsu là Đấng Mêsia.
  • Sự thôi thúc của hồng ân Chúa thúc bách ngài dấn thân phục vụ Đức Kitô – ngài đã đáp trả bằng đức tin. Đức tin là một hồng ân mà Thiên Chúa ban cách nhưng không cho mọi người. Sáng kiến của Thiên Chúa là sai Con của Ngài xuống khi con người còn là tội nhân.
  • Thị kiến về Đức Kitô Phục Sinh đã dạy ngài rằng Đấng Được Xức Dầu của Thiên Chúa đã đến.
  1. Bản chất của công việc truyền giáo của ngài
  1. 1Cor. 1: 17: Vì Đức Kitô đã không sai tôi đi để rửa tội nhưng để rao giảng Tin Mừng.
  2. Gal. 1: 16: Thiên Chúa đã vui mừng tỏ bày Con Ngài cho tôi để tôi có thể rao giảng Người cho Dân Ngoại.
  3. Thánh Phaolô minh xác sứ vụ của ngài là rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô cho Dân Ngoại và thành lập các hội thánh của Đức Kitô.
  4. Mô thức rao giảng truyền giáo của Thánh Phaolô: bắt đầu với hội đường của người Do Thái, nhưng bị tẩy chay, rồi rao giảng ở nơi công cộng và làm bạn với một số cá nhân. Những cá nhân này trở thành các môn đệ của ngài để nâng đỡ và tiếp tục công việc rao giảng và giáo huấn của ngài trong những hội thánh địa phương này.

 

  1. Vai trò của Thánh Phaolô trong những cộng đoàn mà ngài viết thư cho

Trừ Rôma, Thánh Phaolô đóng vai trò một người cha, và người thành lập các hội thánh trong những cộng đoàn mà ngài việt thư cho. Ngài là người sinh ra họ trong đức tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô qua việc rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô. Ngài là quản lý của ân sủng Thiên Chúa được tỏ lộ trong Đức Chúa Giêsu Kitô cho họ. Như người Cha và người quản lý đối với họ, ngài dạy dỗ và khuyên nhủ, khuyến khích và sửa trị họ trong đức tin, đức cậy và đức mến, cùng làm sao để họ có thể xử thế và sống đời sống hằng ngày trong Chúa Thánh Thần. Mỗi lá thư nhắc nhở họ quyền làm Tông Đồ của Đức Kitô của ngài và chân lý cùng tính xác thật của lời rao giảng mà ngài đã nhận được từ Đức Kitô và nhờ ân sủng của Thiên Chúa. Ngài là mẫu gương cho họ, như “Tôi đã trở nên cha của anh em trong Đức Chúa Kitô Giêsu nhờ Tin Mừng. Cho nên, tôi van nài anh em hãy noi gương tôi.” (1Cor. 4: 13-14). Đối với Rôma, việc ngài tự mình gánh vác trọng trách rao giảng Tin Mừng cho họ cũng là kết quả của ơn gọi làm Tông Đồ Dân Ngoại của ngài.

  1. Liên hệ với các Tông Đồ ở Giêrusalem
  1. Đặt mình như ngang hàng với Nhóm Mười Hai bằng mọi cách, nhưng với một sứ vụ đặc biệt đối với Dân Ngoại.
  2. Sứ vụ công bố và rao giảng Tin Mừng của ngài là một mệnh lệnh nhận được từ một mặc khải cá nhân và trực tiếp của Chúa Giêsu như cho nhóm Mười Hai. Điều này thiết lập quyền bính và tính xác thật của sứ vụ Tông Đồ của ngài.
  3. Thánh Phaolô cũng nhìn đến những truyền thống trước đó của Hội Thánh về “giáo lý” mà ngài đã khai triển về Đức Kitô. Ngài “truyền lại” những gì mà ngài “đã lãnh nhận”.
  4. Nhưng ngài đã nhận được sự hợp tác và sự công nhận từ nhóm Mười Hai (Gal. 2: 9)
  5. Coi mình như người bé nhỏ nhất, nhưng ngang hàng, giữa các Tông Đồ vì ơn gọi của ngài.
  6. Đối chất với Thánh Phêrô trong tình huynh đệ về vấn đề Luật Môsê về cắt bì cho Dân Ngoại.
  7. Gal. 1-2: Chính Thánh Phaolô tường thuật việc ngài đi Giêrusalem hai lần: lần đầu, sau khi trở lại ba năm, để hội ý Thánh Phêrô, và lần thứ nhì để làm đại biểu tại công đồng Giêrusalem cùng với Thánh Barnaba và Titô.

 

  1. Công Đồng Giêrusalem
  1. TĐCV: 15: 1-35, và Gal. 2: 1-10
  2. Thời điểm: tính từ Thư gửi tín hữu Galatê, thì khoảng năm 51-54 sau CN (“sau 14 năm” có thể được hiểu là 14 năm sau khi ngài trở lại hay 14 năm sau 3 năm thăm viếng Giêrusalem)
  3. Mục đích: đại biểu của hội thánh ở Antiokia cùng với Thánh Barnaba và Titô để bàn luận về vấn đề cắt bì cho Dân Ngoại
  4. Sự khác biệt: Trong Sách TĐCV, Thánh Tông Đồ Giacôbê chủ toạ công đồng. Trong Thư Galatê, chính Thánh Giacôbê, Gioan và Phêrô, những cột trụ của Hội Thánh đã chủ tọa và đặt tay để nhìn nhận và cho Thánh Phaolô và Barnaba cộng tác trong việc Tông Đồ.
  1. Tử vì Đạo

- Theo truyền thống thì Thánh Phaolô từ trần khoảng năm 64-67 sau CN, trong thời bách đạo nặng nề của Nêrô sau khi thành Rôma bị cháy.

  • bị chặt đầu ở Roma
  • đã được làm chứng bởi các kỳ mục tên là Longô and Cestô. Không phải là máu mà sữa chảy ra từ cổ ngài.
  1. TĐCV là một nguồn cho cuộc đời của Thánh Phaolô
  1. Cả các Thư của Thánh Phaolô và các tường thuật trong TĐCV không cho biết những ngày tháng nhất định về những biến cố trong đời Thánh Phaolô.
  2. Gal: 1:18-2:1 liệt kê hai biến cố của hai chuyến thăm viếng Giêrusalem của Thánh Phaolô: một chuyến sau ba năm, chuyến kia sau 14 năm.
  3. TĐCV kể lại việc Thánh Phaolô bị tố cáo trước quan Galliô
  4. Câu ghi trên bia đá của Galliô chứng tỏ rằng biến cố này có thể xảy ra khoảng năm 51-52 sau CN.
  5. Việc Thánh Phaolô bị tố cáo đã xảy ra sau công đồng Giêrusalem, như vậy theo lý luận Công Đồng Giêrusalem có thể xảy ra khoảng năm 50-51 sau CN.
  6. “sau 14 năm” nếu được hiểu như 14 năm sau khi trở lại, như thế việc Thánh Phaolô trở lại khoảng năm 36-37 sau CN.
  7. “sau 14 năm” nếu hiểu là 14 năm sau 3 năm thăm viếng Giêrusalem, thì việc Thánh Phaolô trở lại xảy ra khoảng năm 33-34 sau CN.
  8. Ngài sinh ra thế nào?

Cha Murphy O’Connor cho rằng Thánh Phaolô sinh ra khoảng năm 6 trước CN vì chính điều Thánh Phaolô kể ra trong Thư gửi Philemon: “Tôi là Phaolô, một người đã già, và giờ đây là tù nhân của Đức Chúa Giêsu Kitô” (v. 9). Đó là một trong những thư gửi từ lao tù của Thánh Phaolô, có lẽ khoảng năm 54-56 sau CN.

Nhưng điều này gây ra một vấn đề. Trong TĐCV 7: 58, nói rằng trong cuộc tử đạo của Thánh Têphanô: “các nhân chứng bỏ áo choàng của mình dưới chân của một thanh niên tên là Saulô (Phaolô)”. Nếu Thánh Phaolô còn là một người trẻ khi Thánh Têphanô bị giết (có lẽ khoảng năm 33-34 sau CN.), thì theo Cha O’Connor làm sao mà khi đó ngài khoảng 39-40 tuổi được?

2. Thể văn Thánh Thư

  1. cấu trúc thông thường của một cổ thư
  1. Mở đầu: (praescriptio)
  • Người gửi (supersciptio)
  • Người nhận (adscriptio)
  • Chào hỏi
  • Tưởng nhớ và chúc mạnh khỏe
  • Lời cám ơn hay cảm tạ vì những lý do đặc biệt nào đó
  1. Thân thư hay sứ điệp (sứ điệp mở đầu và kết luận)
  2. Kết luận

- lời chào kết thư/ lời chào tạm biệt hay chúc mạnh khỏe

 

  1. Cấu trúc Thánh Thư của Thánh Phaolô
  1. Mở đầu (praescriptio)
  • Lời chào mừng với người gửi và người nhận
  • Cách chào mừng theo hình thức ân sủng, bình an, tình yêu, lòng thương xót đến từ Thiên Chúa Cha và Đức Chúa Giêsu Kitô.
  • Nhắc lại ơn lành đức tin và Tin Mừng dành cho những người nhận.
  1. Cảm tạ với công thức: “Tôi cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì…”
  2. Thân thư
  • Giáo thuyết: Giáo thuyết được coi là trọng tâm của các thư của ngài.
  • Huấn dụ/khuyên nhủ: giáo huấn hay những lời khuyên về luân lý hoặc đạo đức của Thánh Phaolô. Ngài luôn đưa ra những lý do thần học đứng đằng sau giáo huấn của ngài.
  1. Kết thư:

- Cầu nguyện và lời chào hỏi cuối cùng

  1. Những phương pháp tu từ thông thường (như khuyên nhủ, biện minh, v.v…)
  1. Những lý luận theo pháp lý (Judicial/ forensic) thuộc về thư tín giữa chủ và khách hàng. Khách hàng tìm sự giúp đỡ hay bầu cử của những cấp trên quý phái và để đáp lại, người ấy phải tôn trọng người chủ, và nhìn nhận địa vị xã hội cấp trên của người chủ. Mục đích của những phương pháp tu từ về pháp lý là để thiết lập quyền bính cao về pháp lý và công cộng của mình. Thánh Phaolô dùng loại lý luận này để bảo vệ việc mục vụ của ngài bằng cách nhắc nhở cho dân chúng biết những gì ngài đã làm cho họ trong quá khứ.
  2. Cách lý luận kiểu thảo luận/huấn dụ (paraenetic) thuộc loại thư gia đình để khuyến khích người nhận tiếp tục một hành động nào đó vì tương lai, để đào luyện tính tình trong việc tự xác định và trong cách cư xử. Nó được dùng để chỉ dạy và để thuyết phục các phần tử trong gia đình, nhất là bạn bè, ngõ hầu họ chịu đựng một điều gì đó vì danh dự, vinh quang trong tương lai và đào luyện tính tốt về luân lý.
  3. Cách lý luận theo kiểu biện hộ/trình bày có ý làm hài lòng hay gây hứng khởi cho dân chúng để xác định điều gì là đáng tôn trọng/đáng hổ thẹn trong hiện tại, đôi khi được diễn tả bằng cách sử dụng ngôn ngữ khen ngợi và khiển trách, để tôn vinh hay làm nhục một điều gì hay một người nào. Nó cũng được dùng để biện hộ hay xác quyết một địa vị/quyền lợi của một người và tính xác thật của lời nói của một người (thường là lý luận triết học), và để giải quyết những những cuộc tranh luận về việc có nên quan tâm đến quyền bính của một người và tính xác thật của lời nói của người ấy hay không.
  1. Thư như một công cụ cho việc Tông Đồ của Thánh Phaolô.

Trong hầu hết các trường hợp, thư là một công cụ trong việc Tông Đồ của Thánh Phaolô. Đương nhiên chúng ta thấy điều này đúng trong trường hợp các thư Galatê, Philliphê, 2 Corinthô. Quyền bính của Thánh Phaolô và giáo huấn xác thật của ngài bị một số kẻ chống ngài công kích. Việc Tông Đồ của Thánh Phaolô không tránh được liên kết cách tự nhiên với tính xác thật của Tin Mừng và giáo lý mà ngài rao truyền cùng giảng dạy. Chính qua các thư mà Thánh Phaolô giải quyết những tranh chấp, và đồng thời chỉnh đốn những vấn đề phát xuất từ những hội thánh đặc biệt nào đó. Nhưng trước hết, Thánh Phaolô cần phải tái lập quyền bính của ngài như ngang hàng với Nhóm Mưới Hai. Ngay cả trong một số thư, việc làm Tông Đồ của Thánh Phaolô là nền tảng về hữu thể học cho những giáo huấn cao xa hơn về đức tin và những liên hệ của nó như trong 1Corinthô 15 và Roma.

 

3. Từng Thư Một

  1. 13 thư về thật so với các thư còn trong vòng tranh luận

i. Thư nào được coi là thật sự của Thánh Phaolô và thư nào không?

Thật sự Không-thật (bị tranh luận)

1 Thess (51 sau CN) Côlôxê (80 sau CN)

Galatê (55 sau CN) 1 & 2 Tim (80-90 sau CN)

Philipphê (56 sau CN) Titô (80-90 sau CN)

1 & 2 Cor (57 sau CN) Êphêxô (80-90 sau CN)

Roma (57/58 sau CN) 2 Thess (90-100 sau CN)

Philêmon (61-63 sau CN)

- Thứ tự của các thư thật như xuất hiện trong Tân Ước: Roma, 1 & 2 Corinthô, Galatê, Philipphê, 1 Thessalonica, Philêmon. Chú thích: Các học giả khác dùng những tiêu chuẩn khác để coi tất cả các thư đều thật sự là của Thánh Phaolô.

 

ii. Tại sao lại có một số thư gọi là “các thư trong tù”, và các thư khác là “những thư mục vụ”?

 

Các thư trong tù nói đến việc bị giam cầm:

(a) Êphêxô (không thật)

(b) Philipphê (thật)

(c) Côlôxê (không thật)

(d) Philêmon (thật)

 

iii. Các thư Mục Vụ quan tâm đến việc thiết lập phẩm trật và kỷ luật Hội Thánh:

- 1 & 2 Timothê

- Titô

 

  1. Tiêu chuẩn để định tính xác thật
  1. Những bằng chứng ngoại tại dựa vào truyền thống Hội Thánh.

Theo LM Raymond E. Brown, trong An introduction to the New Testament (Tân Ước Nhập Môn), thì trong thập niên 50 của thế kỷ thứ nhất Thánh Phaolô đã viết những tài liệu Kitô giáo sớm nhất mà vẫn cò tồn tại: 1 Thess, Gal, Phil, Philm, I và II Cor, and Rom. Có những giọng văn và nhấn mạnh khác nhau trong mỗi thư, tùy theo những điều mà Thánh Phaolô cho là những nhu cầu của từng cộng đoàn ở một thời điểm riêng biệt. Sự kiện này làm cho chúng ta phải lưu tâm đến việc tổng quát hoá khi nói đến thần học của Thánh Phaolô. Các tác phẩm của các Giáo Phụ thời các Tông Đồ như Ignatiô thành Antiôkia và Clêmentê cũng có vẻ chứng thực điều này. Như LM Brown vạch ra rằng trong khi các tác giả khoảng năm 100-120 (như Ignatiô thành Antiôkia và tác giả thư I Clêmentê) tỏ ra biết về vài thư của Thánh Phaolô, thì bằng chứng rõ ràng đầu tiên về một tuyển tập lớn [của các thư Thánh Phaolô] xảy ra vài chục năm sau, với Polycarp và Marcion. Marcion chấp nhận 10 thư không kể các Thư Mục Vụ. Đến cuối thế kỷ thứ hai, cả 13 thư được nhiều nơi khác chấp nhận ở Tây Phương, và chẳng bao lâu sau đó Thư Do Thái được thêm vào ở Đông Phương.

  1. Bằng chứng nội tại dựa vào việc phân tích tính thống nhất của ngữ vựng, văn thể, ngữ pháp, và giáo lý đặc biệt thuộc về các tác phẩm của Thánh Phaolô. Theo lập luận thông thường của các các học giả, thì Col và Eph thần học hoá về Hội Thánh hơn là về những hội thánh địa phương như trong các thư được coi là những tác phẩm thật sự của Thánh Phaolô. Cơ cấu tổ chức được chủ trương trong các Thư Mục Vụ, gồm có kỳ mục/giám quản và phó tế có ý định giúp Hội Thánh tồn tại cho các thế hệ tương lai. Một số học giả coi các thư Mục Vụ này là được viết và soạn thảo sau này lấy tên của Thánh Phaolô. II Thess có một giọng văn phổ quát hơn và thường trực trong vệc cảnh báo chống lại những người nhấn mạnh đến việc [Chúa Giêsu trở lại] cấp thời.
  1. Việc dùng tên nặc danh được hiểu thế nào

Nhiều học giả Thánh Kinh cho rằng một trong những môn đệ của “trường phái” Phaolô tự nguyện nhân danh Thánh Phaolô mà viết thư vì muốn thư này được đón nhận cách đáng tin như Thánh Phaolô sẽ nói điều ấy trong trường hợp được đề cập đến. Trường hợp như thế hợp lý nếu người ta cho rằng Thánh Phaolô đã chết và người môn đệ tự coi mình như một người giải thích có thẩm quyền của Thánh Tông Đồ mà tư tưởng của ngài được người ấy tán thành. Trong những trường hợp đó, việc gán tác giả của thư cho Thánh Phaolô không phải là mạo danh hay mạo nhận là Thánh Phaolô viết các thư ấy. Người ta coi Thánh Phaolô như tác giả theo nghĩa là người có quyền thế đứng đằng sau một thư được viết với ý định tiếp nối tư tưởng của ngài - một việc đảm nhận sứ mệnh tiếp tục công việc của vị đại Tông Đồ. Cùng một lý luận cho Isaia II, III, các Thánh Vịnh của Vua Đavid.

  1. Thời gian các Thư được viết
  1. Nếu chúng ta chấp nhận tất cả 13 thư đều thật sự là của Thánh Phaolô, thì các thư được viết khoảng năm 50 đến 63 sau CN.
  1. Từng thư một
  • 1 Thessalonica: là thư thật sự của Thánh Phaolô, không bị ai chối cãi, hầu hết các học giả đều đồng ý rằng thư được viết khoảng năm 50 sau CN, như một thư được viết sớm nhất từ Athens.
  • 2 Thessalonica: nếu là thư thật [của Thánh Phaolô] thì được viết khoảng năm 50-51 sau CN Nếu là thư dưới bút hiệu Phaolô, thì được viết trước năm 70 vì 2 Thess 2:4 nhắc đến Đền Thờ của Thiên Chúa, là đền thờ bị phá hủy vào khoảng năm 70 sau CN. Hầu hết các học giả đồng ý với quan điểm thứ nhì.
  • Galatê: việc tác giả thật sự là Thánh Phaolô luôn được thừa nhận, và hầu hết các học giả đồng ý là được viết từ năm 53 đến năm 55 sau CN
  • Philliphê and Philemon: việc Thánh Phaolô là tác giả luôn được thừa nhận. Hầu hết các học giả kể hai thư này vào số các thư viết từ lao tù của Thánh Phaolô, thời gian viết khoảng 54-56 sau CN trong khi Thánh Phaolô bị tù tại Ephêxô.
  • Côlôxê: một thư từ lao tù. Hầu hết các học giả cho rằng là một thư lấy bút hiệu [Phaolô] và được viết khoảng năm 80 sau CN. Nhưng chúng ta cũng có thể bênh vực cho việc thư này là thư thật [của Thánh Phaolô] (từ TS. Jody). Nếu thật sự thì thư có thể được viết khoảng cùng thời gian với Philliphê and Philêmon, có nghĩa là khoảng năm 54-56 sau CN từ Ephêxô.
  • Ephêxô: một thư khác từ lao tù. Có lẽ là một thư lấy danh hiệu Phaolô như hầu hết các học giả nghĩ. Nếu trong trường hợp này thì thư được viết khoảng năm 80 và trước năm 110 sau CN (được dẫn chứng trong các tác phẩm của thánh Ignatiô thành Antiokia). Nếu thật sự là của Thánh Phaolô, thì được viết khoảng năm 61-63 sau CN từ Rôma, là nơi mà Thánh Phaolô bị giam giữ sau này.
  • 1 Côrinthô: là thư thật của Thánh Phaolô mà không ai chối cãi được, và được viết khoảng giữa năm 54-56 sau CN từ Ephêxô.
  • 2 Côrinthô: là một thư được mọi người nhận là của Thánh Phaolô. Thời gian viết tùy thuộc vào 1 Cor. Hầu hết các học giả đều đồng ý rằng thừ này được viết khoảng năm 56-57 sau CN từ Macêđônia.
  • Roma: luôn luôn được chấp nhận là thư thực sự Thánh Phaolô. Nó được viết vào khoảng năm 55-58 sau CN từ Côrinthô.
  • Các Thư Mục Vụ: nếu chấp nhận Thánh Phaolô thật sự là tác giả, thì chúng phải được viết khoảng năm 63-66 sau CN. Nếu tác giả lấy bút hiệu Phaolô như hầu hết các học giả đồng ý thì được viết khoảng năm 70-100 sau CN bởi các môn đệ của Thánh Phaolô, hay khoảng 100-125 sau CN vì những bằng chứng về ngữ học, văn thể, thần học và lịch sử được áp dụng trong giai đoạn sau này của Hội Thánh.
  1. Những hoàn cảnh chính của các cộng đồng được nhắc đến

 

  1. Những đe dọa thông thường từ bên trong:
  • Các kẻ thù nghịch tạo ra những nghi kỵ làm mất uy tín và gây ra chia rẽ hay rạn nứt giữa cộng đoàn và tai họa.
  • Việc từ bỏ những nguyên tắc của Tin Mừng và đời sống đức tin về luân lý, các thực hành sùng kính, những cách sống bừa bãi về tính dục.
  • Nghi ngờ về quyền bính của Thánh Phaolô như một người ngang hàng với Nhóm Mười Hai và tính xác thật của việc rao giảng Tin Mừng của Thánh Phaolô.
  • Thắc mắc về ngày Chúa Trở Lại (Parousia) và thực tại về cánh chung là những điều làm cho đức tin Kitô giáo được vững chắc và kiên định trong đức cậy và đức mến.
  • Hiểu lầm quan niệm về Lề Luật và tự do trong Thần Khí.
  • Những vấn đề liên hệ đến cấu trúc gia đình (vợ-chồng, cha mẹ - con cái, chủ - tớ)
  • Quan tâm về giáo lý và những liên hệ luân lý phát xuất từ những triết gia Hy Lạp và những người theo Đạo Do Thái.
  1. Những đe dọa thông thường từ bên ngoài
  • Một nhóm người ngoài đến sau Thánh Phaolô (Các Kitô hữu gốc Do Thái) chống đối và thách thức quyền bính của giáo huấn và lời rao giảng của Thánh Phaolô về Đức Kitô và Tin Mừng.
  • Họ áp đặt trên những cộng đoàn này luật Môsê, nhất là luật cắt bì để được công chính hoá.
  • Điều này tạo ra nhiều xáo trộn, rạn nứt và chia rẽ giữa các Kitô hữu gốc Do Thái và gốc Dân Ngoại.
  • Nó gây ra vấn nạn về địa vị trổi vượt của các Kitô hữu gốc Do Thái trên các Kitô hữu gốc Dân Ngoại.
  1. Tầm quan trọng của Thư Rôma như thư chủ yếu của Thánh Phaolô: 4 lý do:
  • Thư chung không trả lời một vấn đề đặc biệt nào cả.
  • Khai triển thần học của Thánh Phaolô một cách sâu sắc và nói rõ về ơn công chính hoá nhờ đức tin qua Tin Mừng của Đức Kitô được các Tông Đồ rao giảng.
  • Tóm tắt nhiều vấn đề đã được bàn đến trong các thư khác và bằng những lý luận khá hùng biện.
  • Phản ảnh quyền làm Tông Đồ Dân Ngoại của Thánh Phaolô và sứ vụ của ngài đối với muôn dân.

Từ ghi chú cũ

i. Thư này nói với nhóm nào nhiều nhất? Các nhà chú giải thường cho rằng để hiểu Thư này thì điều quan trọng là phải biết các thành phần hợp thành Hội Thánh ở Rôma. Trong thời hiện đại, trường phái Tubingen, E.Renan, T. Zahn, W. Manson và F.Leenhardt đã coi nhóm này phần lớn là các Kitô hữu gốc Do Thái. Lý luận chính của họ dựa vào việc có nhiều trích dẫn Cựu Ước, nhất là truyện ông Abraham. Điều này có vẻ ám chỉ rằng Thánh Phaolô đã tiên liệu rằng các độc giả của ngài hầu hết là gốc Do Thái. Hơn nữa, có một số đông dân Do Thái sống ở Rôma vào thế kỷ thứ nhất, đó là thành phần tự nhiên của Hội Thánh Kitô giáo. Dù một số lớn bị Clauđiô trục xuất (cd. 49 AD), họ có thể đã trở lại sau cái chết của ông vào năm 54 trước CN. Tuy nhiên trong số đó có nhiều nhà chú giải khác như J. Munck, S. Lyonnet và C.K. Barret - tin rằng nhóm người này phần lớn là các Kitô hữu gốc Dân Ngoại. Bởi Thánh Phaolô kể vào số các độc giả của ngài những người trong số Dân Ngoại, vì ơn cứu độ của họ mà ngài đã được sai đi như một Tông Đồ. Giữa hai ý kiến, ý kiến thứ nhì được nhiều người tán thành. Nhưng vấn đề thật nan giải; vì khi phân tích kỹ lá thư người ta thấy rằng Thánh Phaolô không biết rõ tình trạng cụ thể ở Rôma và không đương đầu với những vấn đề đặc biệt của Hội Thánh Rôma mà người ta có thể đã báo cáo cho ngài.

 

ii. Thư này có chứa đựng đầy đủ tư tưởng thần học của Thánh Phaolô không? Tại sao có hay tại sao không? Viết từ Côrinthô vào mùa đông năm 57/58 sau CN, như Tông Đồ Dân Ngoại (11:13), Thánh Phaolô muốn tự giới thiệu với hội thánh Rôma, là hội thánh không đích thân biết ngài. Ý thức được nhiệm vụ Tông Đồ của mình, ngài viết thư giới thiệu như một cách trình bày kiến thức về Tin Mừng của ngài (1:16-17) là điều mà ngài nóng lòng muốn rao giảng ở Rôma. Thư Rôma không phải là một tóm tắt về học thuyết Kitô giáo, cũng không phải là một “tờ di chúc” của Thánh Phaolô, cũng không phải là một phác họa quan niệm của Thánh Phaolô về Kitô giáo. Thư này thiếu một số giáo huấn quan trọng của ngài - về Hội Thánh, Bí Tích Thánh Thể, việc thân xác người ta sống lại, cánh chung học. Đúng hơn, thư này là một trình bày về suy tư truyền giáo của ngài, về khả năng có thể được cứu độ trong lịch sử giờ đây được ban cho mọi người trong Tin Mừng của Đức Chúa Giêsu Kitô. Dưới ánh sáng của việc tông đồ miền đông của ngài, đặc biệt là cuộc khủng hoảng về những người gốc Do Thái, Thánh Phaolô hiểu rằng ơn công chính hoá của một người không tùy thuộc vào “những việc làm theo Lề Luật”, nhưng tùy thuộc vào đức tin nơi Đức Chúa Giêsu Kitô, là Chúa Con mà tình yêu của Chúa Cha cũng không tiếc. Nhờ đức tin, con người chia sẻ những hiệu quả của kế hoạch cứu độ mà Chúa Cha đã cưu mang và được thực hiện trong Cái Chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Ngài cũng bàn về việc cắt bì, Lề Luật, ơn công chính hoá, con cái Abraham, Ađam, ơn cứu độ, sự công chính, Thần Khí, sự cứng lòng tin của dân Israel, việc Chúa trở lại (parousia), khuyên nhủ về luân lý, về những lương tâm yếu đuối.

 

iii. Roma 1:16tt được nói là có chứa đựng chủ đề của Thư. Vậy chủ đề ấy là gì? Đối với Thánh Phaolô, Tin Mừng là một nguồn ơn cứu độ có uy lực, tỏ lộ đức công chính của Thiên Chúa. Tin Mừng không phải chỉ là một sứ điệp, một triết thuyết hay một hệ thống tư tưởng để chúng ta học hỏi, nhưng là “câu truyện về Thập Giá” mà nhờ đó quyền năng của Thiên Chúa ảnh hưởng đến việc cứu độ tất cả những ai có đức tin. Đó là một món quà nhưng không của Thiên Chúa làm cho người có tội được công chính hoá, được trở nên người công chính. Đức tin là sự đáp trả lại món quà nhưng không này. (Rom 1:16-17 “Bởi tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Ðó là quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ bất cứ ai có đức tin, trước tiên là người Do Thái, sau đó là người Hy Lạp. Vì trong đó, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin và cho đức tin, như có lời viết rằng, “Người công chính nhờ đức tin mà sẽ được sống.”)

 

iv. Dựa trên lý do cơ bản nào mà Thánh Phaolô kết án cả Dân Ngoại lẫn dân Do Thái? Lời xác nhận ở 1:16-17 được giải thích bằng một suy nghĩ phản đề sơ khởi: Nếu không có Tin Mừng thì con người sẽ ra sao? Thánh Phaolô buộc tội cả Hy Lạp lẫn Do Thái vì không giúp con người có khả năng để đạt được sự chính trực về luân lý. Để mặc họ, người Hy Lạp ngoại đạo không thể đi đến việc nhận biết Thiên Chúa và hậu quả là rơi vào tình trạng phi luân. Nếu không có Tin Mừng thì người Do Thái không bao giờ thành công trong việc đạt đến sự chính trực trước Thiên Chúa, dù họ có mọi lợi thế của Luật Môsê. Trong cả hai trường hợp, hậu quả là xa rời Thiên Chúa, và cơn thịnh nộ của Ngài được bày tỏ cho cả hai. Đó chính là thân phận của con người trước khi có Tin Mừng của Đức Chúa Giêsu Kitô.

 

v. Thánh Phaolô coi Lề Luật như thế nào? Đối với Thánh Phaolô, ho nomas hay nomos là Luật Môsê, không phân biệt những mệnh lệnh về sung kính/nghi lễ và những đòi hỏi về luân lý. Khi Thánh Phaolô nhân cách hoá Tội Lỗi và Sự Chết, ngài cũng nhân cách hoá Lề Luật, là điều làm cho con người “thật sự ý thức” tội lỗi là gì (Rom 3:20). Tự nó, Lề Luật là “tốt, chính đáng và thánh thiện (Rom 1:12, 16)." Ngài còn gọi nó là pneumatikos bởi vì đến từ Thiên Chúa và có mục đích đưa con người đến sự sống. Nhưng Lề Luật không thể tạo ra sự chính trực, bởi vì nó chỉ cung cấp những luật lệ bề ngoài cho những điều phải là, mà không cung cấp dynamis (khả năng) để làm điều ấy.

Hậu quả là Lề Luật làm cho tội lỗi gia tăng bởi vì nó hoặc là dạy người ta về những tình trạng có thể về thực chất của tội lỗi bằng cách cấm điều gì, mà tự nó là bình thường; hay nó kích thích khuynh hướng theo thích đuổi điều bị cấm đoán (Rom 7:5, 8,11). Như một người báo tin về luân lý, trong khi cho con người một hiểu biết (epignosis) về tội lỗi, nó đặt ra một lời chúc dữ cho tất cả những ai không tuân giữ Lề Luật. Lề Luật chỉ còn là một dụng cụ của tội lỗi (hamartia). Nhưng nhờ dùng Lề Luật, thực chất của Tội Lỗi được phơi bày.

Làm sao mà Thiên Chúa cho phép điều “tốt, công chính và thánh thiện” phục vụ một căn nguyên như thế? Thánh Phaolô giải thích rằng sự dị thường là một thực tại bởi vì loài người thuộc về xác thịt (sarkinos). Mặc dù Lề Luật đến từ Thiên Chúa, và thuộc về Thần Khí (pneumatikos), nó không làm gì để giải quyết sự xung khắc mà mỗi người cảm nghiệm, bởi vì mỗi người đều bị bán rẻ dưới tội lỗi (Rom 7:14).

Lý do mà quan niệm của Thánh Phaolô về Lề Luật tiêu cực như thế vì ngài nhìn Cựu Ước qua những lăng kính của người Biệt Phái và các ông thầy Do Thái, cùng bận tâm về 613 điều luật và cách giải thích chúng theo những nguyên tắc đạo đức (casuistic interpretation). Hoạ lắm ngài mới nói đến Cựu Ước như một berit (giao ước) – có thể bởi vì chữ tương tự trong Bản Bảy Mươi của từ ấy là diatheke: "di chúc", một ý niệm về luật lệ và khế ước.

Dù sao đi nữa, Thánh Phaolô tin chắc rằng nhờ Cái Chết và Phục Sinh của Đức Kitô, con người không còn làm nô lệ cho Lề Luật, nhưng – trong Đức Kitô - họ được giải thoát khỏi những gì ràng buộc và cưỡng bách họ từ bên ngoài, nhưng điều này không giúp họ làm điều lành mà Lề Luật đòi hỏi. Con người không thể lập công để được nên công chính. Nó ở ngoài Lề Luật (3:21ff). Sự giúp đỡ của Thiên Chúa không lấy đi ý chí tự do của chúng ta. Ông Abraham được nên công chính nhờ đức tin (4:1ff).

 

vi. Chương 8 của Thư Roma bàn về Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần đóng vai trò gì? Trong Roma 5:1-11, Thánh Phaolô tuyên bố rằng người được nên công chính được sức mạnh để sống một đời sống mới như là kết quả của tình yêu Thiên Chúa được tỏ lộ trong hành động giải phóng của Đức Kitô, là hành động tạo nên trong người ấy một sự giải thoát khỏi Tội Lỗi, Sự Chết và Lề Luật. Giờ đây người ấy được sống “theo Thiên Chúa”. Cách sống mới này đến từ nguyên lý năng động nội tại của hoạt động – chính là Thần Khí của Thiên Chúa. Đức Chúa Giêsu Kitô đã cứu con người khỏi ách nô lệ và làm cho họ có thể sống “theo Thần Khí” (8:1-4). Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, người Kitô hữu là một người con của Thiên Chúa, được tái sinh bởi Thiên Chúa và được định để hưởng vinh quang của sự Hiện Diện mật thiết của Thiên Chúa (8:14-30). Được ban cho các Kitô hữu được rửa tội, Chúa Thánh Thần là quyền năng ban sự sống của Thiên Chúa, Đấng ban cho người Kitô hữu đặc tính của một nghĩa tử của Thiên Chúa và là thừa kế những lời hứa của Thiên Chúa. Chúa Thánh Thần, Đấng là nguồn mạch của đức tin, đức cậy và đức mến của Kitô hữu, giúp người Kitô hữu trong việc cầu nguyện và làm cho người ấy đặc biệt ý thức về sự liên hệ của mình với Chúa Cha.

 

vii. Roma 14-15 quan tâm đến một vấn đề luân lý cụ thể với “người mạnh” và “người yếu”. Vấn đề ấy là gì và liên hệ của “người mạnh” và “người yếu” với nó ra sao? Trong khi Rom 14:1-15:13 quan tâm đến những vấn đề nhỏ như ăn thịt và giữ những ngày lễ, căn bản hơn là nó đương đầu với một vấn đề rất xưa. Lương Tâm “bối rối” (người yếu) so với lương tâm được soi sáng (người mạnh) hay bảo thủ so với cấp tiến. Những đề tài được rút ra, không phải từ những kinh nghiệm của Hội Thánh ở Rôma, mà từ những kinh nghiệm truyền giáo của Thánh Phaolô trong quá khứ. Ngài chỉ nói đến chúng một cách tổng quát. Mặc dù tự chúng không quan trọng, những đề tài ấy cho Thánh Phaolô dịp để trình bày cách hệ thống những nguyên tắc khôn ngoan dựa trên đức tin, đức ái, gương của Đức Kitô và các Kitô hữu trung thành với Người. Cuộc thảo luận của ngài chấm dứt bằng một lời kêu gọi hợp nhất theo kiểu mẫu mà Đức Kitô đã đề ra. Người Mạnh phải sẵn lòng từ bỏ một số cách sống của mình nếu chúng làm cho những Người Yếu bị hư mất. Không bên nào được kết án bên kia, nhưng cả hai phải chúc tụng Thiên Chúa trong việc họ làm (xem 1Cor 8-10).

 

  1. Thần Học của Thánh Phaolô

Quan niệm của Thánh Phaolô về những điều dưới đây:

 

  1. Đau khổ

Ý niệm về đau khổ có ba ý nghĩa: (1) chịu đựng gian nan hay đau khổ vì Tin Mừng. Đó là sứ điệp của Thập Giá. (2) chịu đựng trong giáo lý lành mạnh và trong cách cư xử để chờ Chúa trở lại (Parousia), (3) một phần của việc làm môn đệ Đức Kitô. Như 1Thess viết: chúng ta là chiến binh của Đức Kitô, chúng ta được mời gọi để cùng chịu đóng đinh với Đức Kitô. Như trong Gal 2: 19-20, Thánh Phalô nói, “Tôi đã chịu đóng đinh với Đức Kitô. Tôi sống, nhưng không còn là tôi, mà Đức Kitô sống trong tôi.” Tại sao? Bởi vì điều quan trọng chính yếu của ơn cứu độ của chúng ta là Thánh Giá. Như Thánh Phaolô nói trong 1Cor 2 rằng ngài được gọi “để rao giảng Tin Mừng, rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, quyền năng của Thiên Chúa và từ Thiên Chúa, cũng như sự công chính, thánh hoá và ơn cứu độ”. Vì, “chúng tôi đã chấp nhận án tử nơi chính bản thân rồi, để chúng tôi không còn tin tưởng vào chính mình, mà vào Thiên Chúa, Đấng làm cho kẻ chết sống lại, và trong Ngài chúng tôi có niềm trông cậy rằng Ngài sẽ còn cứu chúng tôi nữa.” (2Cor 1:9-10). Ở đây Thánh Phaolô cung cấp cho chúng ta một môn thần học về đau khổ. Tự nó, đau khổ không có công gì, nhưng trong Đức Kitô và được liên kết với Thánh Giá của Đức Kitô, đau khổ làm cho chúng ta đáng được ơn cứu độ. Sức mạnh của việc kiên tâm chịu đựng đau khổ là niềm hy vọng vào sự Phục Sinh của Đức Kitô. Vì “Nếu chỉ vì cuộc đời này mà chúng ta hy vọng vào Đức Kitô, thì chúng ta là những kẻ đáng thương nhất trong mọi người” (1Cor 15: 19). Sự hiểu biết căn bản về đau khổ của Thánh Phaolô không là gì hết trừ việc Thiên Chúa chứng thực về Đức Kitô chịu đóng đinh bằng cách cho Người sống lại từ cõi chết.

 

  1. Noi gương

Chủ đề này được suy nghĩ nhiều và phát triển rộng rãi trong thư của Thánh Phaolô. Thánh Phaolô mời gọi các thính giả của ngài hãy noi gương ngài như ngài đã noi gương Chúa. Việc noi gương này bắt nguồn từ lời mời gọi nên thánh. Như trong 1Thess, ngài mời gọi họ noi gương ngài trong việc chịu đựng những hoạn nạn bằng đức tin và đức cậy vì Tin Mừng như ngài đang chịu đựng. Ngài cũng mời gọi họ noi gương ngài trong việc làm và cách cư xử vì vinh quang của Chúa đang đến. Chủ đề noi gương này được kết hợp cao độ với đời sống Kitô hữu. Trong luật gia đình của Thánh Phaolô, ngài đặt nền móng của nó trong Đức Kitô. Chồng hãy yêu vợ mình như Đức Kitô yêu Hội Thánh của Người. Chồng là đầu như Đức Kitô là đầu Hội Thánh. Đối với mỗi người việc noi gương Đức Kitô này được Thiên Chúa ban tùy theo ơn của Ngài. Như trong 1Cor, Thánh Phaolô giải thích rằng [Chúa Thánh Thần] ban cho mỗi người những ơn khác nhau vì ích lợi cho Hội Thánh. Mỗi người cần biểu lộ ân sủng của mình cách thích hợp vì sự tốt lành cho Hội Thánh. Trong các Thư Mục Vụ, Thánh Phaolô chỉ thị cho các giám quản (giám mục), các kỳ mục (linh mục), và các phó tế, phải chăm lo và làm tròn bổn phận của họ theo những gì Thiên Chúa đã ban cho họ trong Đức Kitô.

  1. Chức vụ Tông Đồ:

Đối với Thánh Phaolô, chức vụ Tông Đồ được biểu thị bằng những đặc tính sau:

  • Chức vụ Tông Đồ là một lời mời gọi do Thánh Ý và ân sủng của Thiên Chúa, để được thánh hiến (dành riêng) cho Tin Mừng và được mời gọi thuộc về Đức Kitô trong mục vụ rao giảng Tin Mừng. Thánh Phaolô nhắc đến điều này trong phần chào hỏi mở đầu của mỗi thư.
  • Lời mời gọi này không đến từ loài người hay qua loài người, nhưng qua Đức Chúa Giêsu Kitô và Thiên Chúa Cha. Nói cách khác, không ai làm trung gian cho chức vụ Tông Đồ, ngay cả các Tông Đồ khác. Đúng hơn, nó là một lời mời gọi trực tiếp và tức thì và được chính Đức Kitô chọn. Nó là một điều gì đặc thù trong đặc tính của ngài, một sự cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh ngay tức thì.
  • Trong 1Cor 9: 1-2, Thánh Phaolô nói: “Tôi không tự do sao? Tôi không phải là một Tông Đồ sao? Tôi đã không thấy Chúa Giêsu, Chúa chúng ta sao? Anh em chẳng phải là công trình của tôi trong Chúa sao? Cho dù tôi không phải là một Tông Đồ cho những người khác, thì chắc chắn rằng tôi là Tông Đồ cho anh em, vì anh em là ấn tín chức vụ Tông Đồ của tôi trong Chúa.” Là Tông Đồ là đã thấy Chúa Phục Sinh và nhiệt thành đối với Tin Mừng của Đức Kitô và công việc của Người. Đối với Thánh Phaolô, không thể tách biệt việc thấy Chúa ra khỏi việc làm tròn ơn gọi mà Đức Kitô ban cho ngài. Công việc phục vụ Tin Mừng là ấn tín của chức vụ Tông Đồ của ngài. Chức vụ Tông Đồ được đóng ấn bằng việc trao lại truyền thống.
  • Nói cách khác, quyền làm Tông Đồ được liên kết cách hiện sinh và thiết yếu với tính xác thật của Tin Mừng mà ngài rao giảng.
  1. Tin Mừng

- Tin Mừng theo Thánh Phaolô không phải là tường thuật về cuộc đời, công việc, việc mục vụ, Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết, và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Nhưng là Chúa Phục Sinh, Đức Chúa Giêsu Kitô [đã sống lại] từ cõi chết. Đây là quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa và từ Thiên Chúa đưa Thánh Phaolô đến dấn than cho việc làm tròn lời hứa cứu độ của Thiên Chúa với muôn dân qua các ngôn sứ và dân Israel.

- Rom 1: 16-17: Bởi tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Ðó là quyền năng của Thiên Chúa để cứu độ bất cứ ai có đức tin, trước tiên là người Do Thái, sau đó là người Hy Lạp. Vì trong đó, sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải, nhờ đức tin và cho đức tin, như có lời viết rằng, “Người công chính nhờ đức tin mà sẽ sống.”

- Tin Mừng của Thánh Phaolô có hai yếu tố chính yếu: Đó là Tin Mừng của Thiên Chúa và về Con của Ngài, Đức Chúa Giêsu Kitô. Nói cáck khác, Tin Mừng của Thiên Chúa, quyền năng để cứu độ mọi người, được Thiên Chúa cho chúng ta biết qua Con của Ngài, Đức Kitô chịu đóng đinh.

- Nói cách đơn giản, điều quan trọng chính của Tin Mừng cốt ở Thánh Giá, Đức Kitô chịu đóng đinh. Trong 1 Cor 1, Thánh Phaolô đặt sứ điệp Tin Mừng ngang hàng với việc rao giảng Thập Giá, Đức Kitô chịu đóng đinh. Như ngài nói: “Trong khi người Do Thái đòi hỏi những dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh,.… là quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì Người mà anh em ở trong Đức Kitô Giêsu, Đấng trở nên cho chúng ta sự khôn ngoan của Thiên Chúa, cũng như sự công chính, thánh hoá và cứu độ”. Điều này dẫn Thánh Phaolô đến vững tin rằng việc làm chính của đời sống Kitô hữu là được cùng chịu đóng đinh vào Thập Giá với Đức Kitô.

- Đồng thời, Thánh Phaolô giải thích cho các tín hữu Côrinthô Tin Mừng này trong bốn điều: Vì tôi đã truyền lại cho anh em điều quan trọng trước nhất mà tôi cũng đã nhận được: là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã sống lại theo như Thánh Kinh, và Người đã hiện ra với ông Kêpha, rồi với Nhóm Mười Hai…. Sau cùng, Người cũng đã hiện ra với tôi.

- Trong Roma, Thánh Phaolô đã giải thích Tin Mừng này đầy đủ bằng cách nói rằng: Ðó là Tin Mừng về Con của Ngài, là Ðấng sinh ra bởi dòng dõi vua Ðavid theo xác thịt, nhưng đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng theo tinh thần thánh thiện, qua việc sống lại từ cõi chết, là Ðức Giêsu, Chúa chúng ta.

- Đối với Thánh Phaolô, sứ điệp Tin Mừng là nền tảng của đức tin vào Đức Kitô. Sứ điệp này của Thiên Chúa đã tạo thành Kinh Tin Kính của đức tin Kitô giáo, là đức tin rằng Đức Kitô đã chịu đóng đinh, đã sống lại, Người là Vua và là Chúa.

  1. Lề Luật

Đối với Thánh Phaolô, sự hiểu biết về Lề Luật không thể tách rời khỏi bình diện giao ước và cánh chung. Như trong thư Galatê (sau này được khai triển sâu hơn trong thư Rôma), Thánh Phaolô dạy rằng người ta không trở nên công chính nhờ Lề Luật nhưng nhờ đức tin vào Thiên Chúa qua Đức Kitô. Thiên Chúa ban Lề Luật như người canh giữ giao ước để tạo nên ý thức về tội lỗi. Đối với Thánh Phaolô, điều quan trọng của Lề Luật không phải là văn tự, nhưng là tinh thần được viết trong tim con người. Lề Luật được hiểu trong hệ thống toà án có ba bên: quan tòa, nguyên cáo và bị cáo. Quan Tòa đương nhiên là Thiên Chúa, Đấng công chính và trung thành với lời hứa của Ngài. Nguyên cáo và bị cáo không tự mình mà nên công chính, nhưng bởi sự chứng thực của quan tòa. Nói cách khác, cắt bì hay tuân giữ Lề Luật, Torah, không phải là điều làm cho người ta nên công chính trước nhan Thiên Chúa, nhưng là một dấu chỉ đang ở trong lời hứa được Thiên Chúa bênh vực. Đó là một dấu chỉ của đức tin, nhưng đức tin của chúng ta giờ đây được chứng thực trong Đức Kitô. Chúng ta không được quan tâm đến Lề Luật hay Torah chỉ vì nó, nhưng vì sự hoàn toàn lệ thuộc của nó vào Đức Kitô, là sự tỏ mình ra của Thiên Chúa cho dân Ngài.

Thánh Phaolô cũng dạy cùng một điều ấy khi dạy về luật gia đình trong 1Cor, Eph, và Col, ngài không nhìn theo tự nhiên nhưng theo quan điểm Kitô giáo, là đặt Đức Kitô làm trọng tâm. Giáo huấn của Thánh Phaolô có trở ngại. Vấn đề là nếu Lề Luật gây ra tội lỗi, thì nên bãi bỏ nó. Trong Rom, và 1Cor Thánh Phaolô dạy cách khác. Lề Luật vẫn được ca tụng nhiều. Đó là luật của Thiên Chúa, nhưng không được phép hiểu theo quan điểm loài người, mà theo quan điểm của Thiên Chúa, đó là, trong Đức Kitô và trong luật mới của ân sủng trong Chúa Thánh Thần.

 

  1. Mặc Khải:

Đối với Thánh Phaolô, mặc khải là mầu nhiệm của quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa để cứu độ mọi người, và có những đặc tính sau:

  • Trao lại truyền thống về Tin Mừng của Thiên Chúa được tỏ ra cho các ngôn xứ thời xưa và tiếp tục được giải thích trong ánh sáng Đức Kitô.
  • Kinh nghìệm cá nhân và dứt khoát về Chúa Phục Sinh, Đức Chúa Giêsu Kitô, được bày tỏ cho các Tông Đồ.

Hai đặc tính này hoàn toàn bất khả phân ly. Đặc tính trước lệ thuộc vào đặc tính sau để được hoàn tất. Nói cách chắc chắn, đối với Thánh Phaolô, hai đặc tính này là một theo bản tính, nghĩa là, mặc khải của Đức Chúa Giêsu Kitô. Nói cách khác, đối với Thánh Phaolô mặc khải là việc tỏ bày mầu nhiệm kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Kitô Giêsu.

  1. Lịch Sử Cứu Độ

I. Ghi Chú Cũ

i. Chúa Cha là tác giả của kế hoạch (chương trình) cứu độ - Chúa Giêsu làm những điều Người làm vì chúng nằm trong kế hoạch của Chúa Cha.

ii. Tin Mừng là một phần của một kế hoạch được Thiên Chúa nghĩ ra, dành cho một hình thức cứu độ con người mới được thể hiện trong Con của Ngài.

iii. Thánh Phaolô nghĩ theo một kế hoạch của lịch sử cứu độ của Thiên Chúa có thể được nhìn thấy theo mục đích của Thiên Chúa: “thời gian đã định” - thời sung mãn.

  1. Quan điểm của Thánh Phaolô về kế hoạch cứu độ được biểu lộ trong các bình diện lịch sử, đoàn thể, vũ trụ và cánh chung:

- lịch sử: tất cả mọi giai đoạn của lịch sử nhân loại

- đoàn thề: vai trò dân Israel đóng trong việc chuẩn bị cho Đức Kitô. Trên hết là việc kết hợp các Kitô hữu gốc Do Thái và Dân Ngoại trong Đức Kitô và Hội Thánh.

- vũ trụ: [liên kết] các thực thể hoàn toàn có tính vũ trụ vào việc cứu độ con người – Thiên Chúa đặt mọi sự dưới chân Người.

  • Cánh chung: Các Kitô hữu đang sống trong thời gian “cuối cùng” Đức Kitô chưa hiển trị chung cuộc. Cho nên việc Chúa trở lại liên quan đến cánh chung trong tương lai. Cũng có bình diện hiện tại mà trong đó các Kitô hữu đã được cứu độ - cánh chung đã được thể hiện.

* Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết và Phục Sinh: Ba giai đoạn làm thành “câu truyện thập giá”. Đó là giây phút quyết định trong kế hoạch cứu độ và sự nối Cuộc Khổ Nạn, Cái Chết, và Phục Sinh lại với nhau cho thấy hiệu quả gấp đôi của ơn cứu độ: việc tẩy sạch tội lỗi và tình trạng công chính. Phục Sinh – vinh quang của Chúa Cha trở nên quyền năng của Ngài giờ đây có khả năng đem lại cho các Kitô hữu ơn phục sinh.

* Chúa và Thánh Thần: Thánh Phaolô quan tâm đến vai trò chức năng mà Chúa Thánh Thần đóng trong việc cứu độ con người. Chúa Thánh Thần là Đấng ban năng lực, giải thoát con người khỏi Lề Luật và sự thèm muốn xác thịt. Chúa Thánh Thần thiết lập ơn làm nghĩa tử. Quyền năng của Chúa Thánh Thần không phân biệt được với quyền năng của Đức Kitô Phục Sinh. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta thực hành chứ không phải chỉ giúp chúng ta biết.

* Thánh Phaolô cũng gọi Chúa Giêsu là “Amen của chúng ta.” Amen = chớ gì được như vậy, hãy đứng vững. “Đức Kitô là sự bình an của chúng ta.” “Chúa Giêsu thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta.”

vi. Các hiệu quả của Ơn Cứu Độ;

  • Ơn Công Chinh Hoá: Đức Kitô, nhờ cuộc khổ nạn, cái chết và phục sinh của Người, đã đem lại ơn công chính hoá, để giờ đây chúng ta đứng trước tòa Thiên Chúa như được tha bổng cách nhưng không. Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu ảnh hưởng đến đời sống chúng ta = dikaiousyne (công chính hoá) = làm cho một ai được công chính. Tội lỗi làm cho chúng ta bị biến dạng, ơn công chính hoá hoàn chỉnh chúng ta.

 

II. Ba thời điểm chính của lịch sử cứu độ theo Thánh Phaolô:

  • Giao ước với ông Abraham
  • Xuất Hành - Luật Môsê ở Sinai
  • Sự việc cuối cùng (eschaton) trong Đức Chúa Kitô Giêsu. Đức Kitô là sự hoàn tất kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được tỏ bày trong lịch sử của tất cả các dân tộc.

 

III. Eph 1: 3- 10

Chúc tụng Thiên Chúa là Cha Ðức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Ðấng đã chúc lành cho chúng ta bằng muôn vàn ơn phúc thiêng liêng trên chốn thiên đình trong Ðức Kitô. Ngài đã chọn chúng ta trong Người, ngay cả trước khi tạo thành vũ trụ, để chúng ta trở nên thánh thiện và tinh tuyền trước mặt Ngài. Trong tình yêu, Ngài đã định cho chúng ta làm nghĩa tử nhờ Ðức Giêsu Kitô theo thánh ý của Ngài, để ca ngợi vinh quang của ân sủng Ngài, mà Ngài đã ban tặng cho ta cách nhưng không trong Người Con Yêu Dấu của Ngài. Trong Người, chúng ta được cứu độ nhờ máu Người, được ơn tha tội theo sự phong phú của ân sủng Ngài, là ân sủng mà Ngài đã đổ tràn trên chúng ta trong tất cả sự khôn ngoan thông biết, Ngài đã tỏ cho chúng ta biết mầu nhiệm của thánh ý Ngài; theo kế hoạch Ngài đã định từ trước trong Ðức Kitô; như một chương trình cho thời viên mãn, Ngài có thể kết hợp mọi sự trong Ðức Kitô, mọi sự trên trời và dưới đất.

 

  1. Kitô học
  1. Bốn yếu tố của sự hiểu biết của Thánh Phaolô về Kitô học:
  • Đức Kitô đã chịu đóng đinh
  • Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết
  • Đức Kitô là Đấng Mêsia, Đấng Chịu Xức Dầu, Vua
  • Đức Kitô là Chúa.
  1. Giải thích về hình thức văn chương của Kitô học của Thánh Phaolô:
  • Các công thức chào mừng và tạ ơn là những công thức rất thông thường và tự nhiên trong mỗi thư.
  • Điều quan trọng nhất trong việc rao giảng Tin Mừng của Đức Kitô là một người phải vững tin. Thánh Phaolô thường dùng công thức “nhận được và truyền lại” như trong 1 Côrinthô
  • Chú giải Cựu Ước cách tiên trưng hay ẩn dụ như trong Roma và Galatê
  • Thánh thi về Kitô học được trích dẫn trong các thư Philliphê và Côlôxê.

Old Note: Vai trò của Đức Kitô trong Kế Hoạch Cứu Độ.

  • Chúa Con Hằng Hữu: Diễn tả vai trò của Chúa Giêsu được phú cho một Thần Khí ban sự sống để cứu độ loài người. Điều này chỉ đến một liên hệ độc nhất với Chúa Cha (theos). Một cách nói rằng Chúa Giêsu có quyền năng siêu vượt loài người. Con Thiên Chúa không mang với mình ý niệm về Thiên Tính. Thánh Phaolô dùng những từ khác để bày tỏ thiên tính của Đức Kitô.
  • Christos: = Đấng được xức dầu. Thánh Phaolô dùng từ này như “tên thứ nhì” của Chúa Giêsu. Đó là Đấng Mêsia. Đối với Thánh Phaolô danh hiệu này biểu thị cho điều ngài tin về Đấng Mêsia (Đấng được xức dầu). Là Đấng Mêsia tức là Vua. Người Do Thái vẫn còn hy vọng việc phục hồi vương quốc của Vua Đavid qua Đấng Mêsia. Như "Christos" trở thành danh hiệu thứ nhì thế nào thì sự hiểu biết mới của Thánh Phaolô về Đức Kitô cũng trở thành bản tính thứ nhì như thế. Thánh Phaolô không nói về Chúa Giêsu như “theos” vì đó là Thiên Chúa của Cựu Ước – Chúa Cha.
  • Kyrios = Chúa (YHWH trong Bản Bảy Mươi LXX). Từ này được dùng thường xuyên nhất trong các thư của Thánh Phaolô. Danh hiệu này luôn luôn có ý nói về Chúa Giêsu như Thiên Chúa. Đó là cách nói về tình trạng Phục Sinh của Chúa Giêsu là Đức Kitô. Đức Kitô được tôn vinh xứng đáng được thờ phượng như thờ phượng Đức Giavê. Danh hiệu này bày tỏ quyền thống trị của Đức Kitô trên nhân loại như ảnh hưởng đến đời sống của họ lúc này. Trong Phil 2:2-11, đó là danh hiệu trên mọi danh hiệu. Trong Rom 11:34 và 1Cor 2:16, ngài dẫn chứng Isa 40:13 “Có ai đã biết được tư tưởng của Chúa?” Trong trường hợp thứ nhất Kyrios nói về Thiên Chúa Cha. Trong trường hợp thứ nhì, từ này nói về Chúa Giêsu. Cho nên, Chúa Giêsu được coi là ngang hàng với Đức Giavê.
  1. Chúa Ba Ngôi:

(1) Thần học về Chúa Ba Ngôi của Thánh Phaolô được suy nghĩ và nhấn mạnh dưới hình thức chúc tụng và tạ ơn. Công thức này luôn được đưa ra như một lời tuyên bố về đức tin.

“Nguyện xin ân sủng và bình an của Thiên Chúa là Cha chúng ta, và của Ðức Giêsu Kitô ở cùng anh em” thường được nói lên trong lời chào hỏi của hầu hết từng thư của Thánh Phaolô. Như chúng ta thấy trong Rom 1:7, 1Cor 1:3, 2Cor 1:2, Gal 1:3, Eph 1:2…

Một luật trừ là chúng ta có thể tìm thấy đoạn nói về Ba Ngôi một cách rõ ràng nhất trong Tân Ước trong 2 Cor 13:13 khi Thánh Phaolô nhắc đến một cách rõ ràng: Nguyện xin ân sủng của Ðức Giêsu Kitô, và tình yêu của Thiên Chúa, cùng sự hiệp thông của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh em. Công thức này đã xuất hiện lâu đời trong phần chào hỏi trong phụng vụ khi cử hành Thánh Lễ của Hội Thánh.

(2) Một số học giả đã lý luận rằng trung tâm thần học của nền thần học của Thánh Phaolô là cứu độ học đặt nặng việc Đức Kitô làm trọng tâm. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng thần học của Thánh Phaolô là cứu độ học với Ba Ngôi làm trọng tâm nhiều hơn. Vì chính bởi Thánh Ý Thiên Chúa Cha mà chúng ta được thánh hoá trong Đức Kitô Giêsu và được mời gọi nên thánh bằng cách kêu cầu danh Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, để hiệp thông với Con của Ngài, là Đức Chúa Giêsu Kitô. Nhưng tận căn không ai có thể nói, “Chúa Giêsu là Chúa chúng ta” trừ khi bởi Chúa Thánh Thần (1Cor 12:3).

(3) Mặc dù Chúa Thánh Thần không được nói đến cách rõ ràng trong công thức chào hỏi, nhưng được kết luận cách rõ ràng. Ân sủng và bình an là hiệu quả của Chúa Thánh Thần. Và Chúa Thánh Thần có một vai trò đặc biệt trong lời khuyên bảo của Thánh Phaolô về sự hợp nhất của Hội Thánh. Vì trong một Thánh Thần duy nhất tất cả chúng ta được chịu phép rửa để thành một thân thể duy nhất. Chính Chúa Thánh Thần là nền tảng vững chắc của niềm hy vọng của chúng ta trong Đức Kitô. Như Thánh Phaolô nói “con người đầu tiên là Ađam được dựng nên thành một sinh vật, còn Ađam cuối cùng là thần khí ban sự sống (1Cor 15:45). Nói cách khác, đời sống của chúng ta là đời sống trong Chúa Thánh Thần được sinh ra trong đức tin vào Đức Kitô do Thánh Ý Thiên Chúa.

(4) Thần học của Thánh Phaolô đặt trọng tâm vào cứu độ học lấy Ba Ngôi làm trọng tâm. Lịch sử cứu độ của chúng ta có thể được nói là sự kéo dài của đời sống Ba Ngôi. Chúa Cha là tác giả của ơn cứu độ, Đức Kitô là quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa ban cho chúng ta, cũng như là ơn thánh hoá, ơn công chính hoá của chúng ta, và Chúa Thánh Thần nâng đỡ đời sống đức tin, đức cậy và đức mến của chúng ta trong Đức Chúa Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.

  1. Phục Sinh

Biến cố Phục Sinh có ý nghĩa ba chiều trong nền thần học của Thánh Phaolô:

  • Kinh nghiệm về Chúa Phục Sinh là điều quan trọng trong cuộc trở lại của Thánh Phaolô. Lòng nhiệt thành với Chúa được biến đổi với Thánh Phaolô khi ngài cảm nghiệm được Chúa Phục Sinh. Ngài thấy rằng Thiên Chúa đã minh chứng cho Chúa Giêsu thành Nagiareth. Ngài thấy rằng trong Chúa Giêsu, Israel cũng đã được minh chứng, cuộc lưu đầy đã chấm dứt. Nước Israel đã được phục hồi. Nói cách khác, sự công chính hoá mà Thánh Phaolô đã thừa hưởng từ nền giáo dục Do Thái được tỏ bày nơi Đức Kitô. Qua việc Thiên Chúa minh chứng cho việc Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, lòng trung thành với giao ước đối với dân Ngài qua các lời hứa với các ngôn sứ đã được tỏ bày hay được thực hiện. Sự hiểu biết về công chính hoá theo quan điểm Do Thái có ba khía cạnh: giao ước với ông Abraham, tòa án - luật lệ với ông Môsê ở Núi Sinai, và ngày sau hết, ngày của Chúa. Việc được minh chứng vào thời sau hết giở đây được hoàn thành nơi Đức Kitô theo lòng trung thành với giao ước và phán quyết của Thiên Chúa.
  • Kinh nghỉệm về Chúa Phục Sinh là nền tảng căn bản của việc Thánh Phaolô nhận mình là Tông Đồ và quyền dạy dỗ cùng rao giảng về Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Như chúng tôi đã nói đến, điều quan trọng chính yếu của Tin Mừng mà Thánh Phaolô rao giảng được biểu thị bằng sự kiện là Đức Kitô đã sống lại. Đó là dấu chỉ về đức tin và ơn cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân Ngài.
  • Trong 1Cor 15, việc sống lại của Đức Kitô là nền tảng cho giáo huấn của Thánh Phaolô về kẻ chết sống lại. Đó là điều chắc chắn của niềm hy vọng vào Đức Chúa Giêsu Kitô.
  1. Cánh chung học

Cánh chung học của Thánh Phaolô có hai cách trình bày riêng biệt: việc Chúa trở lại (Parousia) và việc Thiên Chúa minh chứng cho những ai trung thành với ơn gọi của mình trong Đức Kitô, đó là, nên thánh và không tỳ vết. Trong 1Thess 5 Thánh Phaolô bàn đến việc Đức Kitô trở lại lần thứ hai. Trong thư này Thánh Phaolô kêu gọi dân Thess tiếp tục trung thành và chân thành trong cách cư xử, cùng hãy kiên trì đứng vững trong đức tin, đức cậy và đức mến đối với địa vị được tuyển chọn để nên thánh của họ, và cùng đích được cứu độ trong Đức Chúa Kitô Giêsu. Họ được mời gọi trở thành những chiến sĩ của Đức Kitô. Họ được mời gọi vào một đời sống được đức tin biến đổi, và kết hợp với Đức Kitô trong đời sống và cách cư xử hằng ngày. Thánh Phaolô đảm bảo với họ rằng nếu họ trung thành và bền vững trong Chúa cho đến cùng, thì họ sẽ được cứu độ và không phải lo lắng hay sợ hãi vì những sứ điệp giả mạo về thời gian Chúa đến. Trong 1Cor 15: 50-58, Thánh Phaolô lại nói về thời sau hết. Lần này ngài nói chi tiết hơn. Rằng ngày Chúa trở lại sẽ xảy ra vào lúc người ta ít ngờ nhất.

Nhưng điều chính yếu là cách chung học của Thánh Phaolô dạy về Ngày của Chúa khi Đức Kitô sẽ “trao vương quyền lại cho Thiên Chúa là Cha khi Người đã tiêu diệt hết mọi quản thần, mọi quyền thần và mọi dũng thần. Vì Người phải cai trị cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi thù địch dưới chân Người. Kẻ thù cuối cùng bị tiêu diệt là sự chết” (1Cor 15:24-28). Ở đây cánh chung học của Thánh Phaolô nằm trong phạm vi của giáo lý về kẻ chết sống lại.

Cánh chung học của Thánh Phaolô cũng về Ngày của Chúa như ngày cứu độ (2Cor 6:2), ngày thịnh nộ và lôi đình (Rom 2:5-9). Cả ơn cứu độ lẫn cơn thịnh nộ đều là kết quả của phán quyết của Thiên Chúa (Rom 1:16; 2Cor 5:10). Như thế Ngày của Chúa cảnh cáo:

  • những ngưởi làm việc xác thịt sẽ không được hưởng Nước Thiên Chúa (Gal 5:19-21)
  • người không công chính sẽ không được hưởng Nước Thiên Chúa (1Cor 6:9-11)
  • Kẻ thù của Thánh Giá Đức Kitô cuối cùng sẽ bị tiêu diệt (Phil 3: 17-21)
  • Cơn thịnh nộ và lôi đình sẽ đổ trên những kẻ làm điều gian ác (Rom 2:5-9)

 

5. Thánh Phaolô như Nhà Chú Giải Thánh Kinh

  1. Sử dụng Cựu Ước (như các nhân vật, biến cố, trích dẫn, vv…)

b. Dùng những tài liệu hay những văn thể có sẵn (như thánh thi, kinh tin kính, vv…)

  1. Cách thức Thánh Phaolô đặt nền móng cho việc chú giải Thánh Kinh theo Kitô giáo

Trong Gal, 1 Cor, and Rom, Thánh Phaolô đặt một nền móng cho việc chú giải Cựu Ước và những tài liệu có sẵn hay những hình thức văn chương theo Kitô giáo, mà ngài gọi là một chú giải tiên trưng (typology) hay ẩn dụ (allegory). Trong Gal, khi bàn về Lề Luật và ơn công chính hoá nhờ đức tin, Thánh Phaolô nhắc đến việc ông Abraham được kể là công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ đức tin. Và điều này xảy ra trước việc cắt bì. Ngài so sánh bà Hagar với bà Sarah. Bà Hagar là một tiên trưng cho giao ước cũ, giao ước ở núi Sinai, nhưng bà Sarah là một tiên trưng cho giao ước mới, một giao ước do lời hứa của Thiên Chúa. Chúng ta, các Kitô hữu, là con cái của Tân Ước. Trong Roma, ngài dùng cùng một phương pháp chú giải Thánh Kinh trong cùng một phạm vi lý luận. Hơn nữa, trong Roma 9, 10, 11 Thánh Phaolô giải thích cách ẩn dụ toàn thể câu truyện tuyển chọn, xuất hành, và những cuộc xuất thần tiên tri như được hoàn thành nơi Đức Kitô. Ngài cũng phân biệt ông Addam với Đức Kitô, là Ađam thứ nhì như chúng ta thấy trong 1Cor 15. Ađam thứ nhất là căn nguyên của tội lỗi. Nhưng qua Đức Kitô, mà có ơn cứu độ và số người còn sót lại. Thánh Phaolô cũng thường chưng dẫn Cựu Ước, nhất là các ngôn sứ và văn chương Khôn Ngoan như những chứng từ song song của giáo huấn của ngài dưới hình thức trao lại truyền thống.

Một yếu tố khác mà Thánh Phaolô đã dùng các biến cố trong Cựu Ước để ám chỉ Đức Kitô là biến cố Vượt Qua như trong 1Cor. Ngài thấy rằng Kitô hữu là men mới của việc cử hành Lễ Vượt Qua, và Đức Kitô là Chiên Vượt Qua bị hiến tế để giải phóng dân Israel. Và việc vượt qua Biển Đỏ là hình thức Rửa Tội. Tảng Đá mà từ đó nước chảy ra để làm dịu cơn khát của dân Israel trong hoang địa là Đức Kitô. Nói cách khác, Thánh Phaolô coi Cựu Ước như chứng từ về Đức Kitô mà trong Người lời hứa của Thiên Chúa trong thời sau hết, là việc Thiên Chúa chứng giám, được làm trọn và trải rộng ra khắp thế gian.

Thánh Phaolô cũng dùng tài liệu cò sẵn khác và những văn thể như thánh thi về Kitô học trong Col và Phil, hay trao lại truyền thống như việc thiết lập bí tích Thánh Thể trong 1Cor trở thành nền tảng căn bản cho những giáo huấn xa hơn của ngài về Đức Kitô và Hội Thánh. Thánh Phaolô không sợ dùng những tài liệu có sẵn này như những lời tuyên bố căn bản được đưa vào giáo lý và giáo huấn. Dù tự nó, bài thánh thi là về Kitô học, nội dung giáo huấn của nó lại là cứu độ học. Đó là cách giúp Thánh Phaolô trình bày cho các giáo đoàn về những vấn đề riêng của họ liên quan đến đời sống đức tin vào Đức Kitô.