THÁNH KINH
Fri, 28 November

Tìm hiểu phương pháp đọc Kinh Thánh

Tinh thần và định hướng việc học Kinh Thánh.

Các bước tìm hiểu một đoạn văn Kinh Thánh.

-Phân biệt “sự thật bản văn” và “sự thật lịch sử”

- Ba-phuong-phap-phan-tich

Kỹ thuật hành văn trong Tin Mừng Gio-an

[1] ATinh thần và định hướng việc học Kinh Thánh.

Ngày 05 tháng 09 năm 2013.
Giuse Lê Minh Thông, O.P.
Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/09/tinh-than-va-inh-huong-viec-hoc-kinh.html

 

- Câu hỏi gợi ý:

1) Học Kinh Thánh để làm gì? Tại sao?

2) Một số định hướng khi tìm hiểu Kinh Thánh.

3) Học Kinh Thánh không chỉ để hiểu biết mà quan trọng hơn là để làm gì?

 

Nội dung

1. Mục đích

2. Tinh thần học

3. Tự học

4. Định hướng việc tìm hiểu Kinh Thánh

 

1. Mục đích

 

Mục đích của việc học Kinh Thánh là nhận ra rằng:

 

- Lời Chúa là kho tàng phong phú, hấp dẫn, thu hút và có ích lợi thiết thực cho cuộc sống hiện tại. 

 

- Lời Chúa vừa soi sáng, vừa hướng dẫn cuộc sống, vừa là nguồn khích lệ trong hoàn cảnh khó khăn, vừa là lương thực dồi dào cho đời sống tâm linh.

 

Nhờ đó những ai yêu mến học hỏi Lời Chúa có thể sống dồi dào và sống có ý nghĩa cuộc sống hiện tại. Cho dù cuộc sống nhiều khó khăn, phức tạp và bấp bênh đến đâu đi nữa, người yêu mến Lời Chúa vẫn có bình an và niềm vui của Đức Giê-su ban tặng. Bình an và niềm vui ấy hiện diện ở nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn. Nhờ thế, người yêu mến học hỏi Lời Chúa có khả năng đứng vững và có sức mạnh để vượt qua mọi gian nan thử thách.

 

Nhờ biết phương pháp đọc và phân tích bản văn Kinh Thánh, mọi người có thể tự mình tìm hiểu bản văn để thưởng thức Lời Chúa và áp dụng vào cuộc sống hiện tại.

 

2. Tinh thần học

 

- Học vì yêu thích, không học vì bị ép buộc.

 

- Vì yêu thích nên vui vẻ sắp xếp thời gian để học.

 

- Học để mở trí, mở lòng ra đón nhận và sống giáo huấn của Đức Giê-su.

 

- Học để xét duyệt lại và cập nhật những kiến thức đã biết.

 

- Học để canh tân và đổi mới cách suy nghĩ và hành động.

 

- Học để biết là mình chưa biết đủ về Đức Giê-su. 

 

- Học để nhận ra sự hiểu biết tiến triển không ngừng.

 

- Học để biết chiêm ngắm và sống với Lời Chúa.

 

3. Tự học

 

Với sự hỗ trợ của sách vở và các lớp học, mọi người có thể trau dồi việc học. Chẳng hạn để học hỏi Tin Mừng Gio-an có thể tiến hành các bước sau:

 

1) Đọc chậm rãi và kỹ lưỡng toàn bộ sách Tin Mừng Gio-an. Ghi nhận những điểm khó hiểu và thắc mắc nếu có. Có thể tìm giải đáp thắc mắc qua các tác giả và tài liệu đáng tin cậy hoặc qua trao đổi với người khác.

 

2) Có ba cách chính để tiếp cận bản văn Kinh Thánh:

     a) Phân tích đoạn văn.

     b) Phân tích đề tài.

     c) Phân tích nhân vật.

 

Sau khi đọc kỹ Tin Mừng Gio-an, có thể chọn một trong các đề tài gợi ý sau để tìm hiểu:

 

1. Chọn một đoạn văn trong Tin Mừng Gio-an để phân tích.

 

2. Chọn một đề tài trong Tin Mừng hay trong một đoạn văn để phân tích.

 

3. Liệt kê các nhân vật trong Tin Mừng Gio-an, sau đó xếp loại một số nhân vật:

    - Nhân vật đứng về phía Đức Giê-su.

    - Nhân vật chống đối Đức Giê-su.

    - Nhân vật không tin rồi tin.

    - Nhân vật tin rồi không tin.

    - Nhân vật có chuyển biến phức tạp.

    - Nhân vật không thay đổi lập trường trong bản văn.

 

4. Chọn một (hay một nhóm) nhân vật gây ấn tượng trong Tin Mừng Gio-an để phân tích.

 

5. Phân tích từ ngữ. Mỗi từ trong sách Tin Mừng có thể trở thành đề tài học hỏi.

 

4. Định hướng việc tìm hiểu Kinh Thánh

 

Trước khi tìm hiểu Kinh Thánh, có thể nêu lên một số định hướng việc học như sau:

 

1. Tôn trọng nội dung bản văn Kinh Thánh. Mục đích là đi tìm ý nghĩa của bản văn chứ không dùng bản văn làm phương tiện để minh họa cho suy nghĩ có trước của độc giả.

 

2. Chỉ áp dụng ý nghĩa của bản văn vào cuộc sống sau khi hiểu (một phần nào đó) ý nghĩa của bản văn; đồng thời ý thức rằng việc tìm hiểu ý nghĩa của bản văn không bao giờ kết thúc, vì bản văn tương quan mật thiết với cuộc đời và kinh nghiệm sống của độc giả.

 

3. Biết rõ những chi tiết bản văn nói tới và những chi tiết bản văn không nói tới. Từ đó tập trung phân tích những chi tiết bản văn cung cấp cho độc giả.

 

4. Có thể giả định về cách hiểu đoạn văn, nhưng cần kiểm chứng trong khi phân tích bản văn. Những kết luận rút ra từ bản văn cần trả lời thỏa đáng câu hỏi này: Dựa vào đâu trong bản văn để rút ra kết luận như thế?

 

5. Mục đích của việc học hỏi Kinh Thánh không chỉ là để hiểu biết mà quan trọng hơn là để sống với bản văn, để chiêm ngắm ý nghĩa của câu chuyện như chiêm ngắm một bức tranh đẹp và nhiều ý nghĩa. Nhờ đó Lời Chúa sẽ biến đổi cuộc đời và làm cho độc giả thêm vững mạnh. 

 

[1] B Công cụ học hỏi.

 

 

Bản văn KINH THÁNH

 

Bản văn Kinh Thánh Híp-ri và Hy Lạp

 

BHS, Biblia Hebraica Stuttgartensia, by ELLIGER, K.; RUDOLPH, W., (eds.), (Hebrew Bible, Masoretic Text), Fourth Corrected Edition, Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 1990.

 

BW, Bible Works

 

GNT, The Greek New Testament, by ALAND, B.; ALAND, K. (et al.), (eds.), (Fourth Revised Edition), Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 2001.

 

LXX, Septuaginta, by RAHLFS, A., (ed.), (Old Greek Jewish Scriptures), Deutsche Bibelgesellschaft, (1935), 1979.

 

Nouveau Testament, interlinéaire Grec / Français, par CARREZ, M., Composition réalisée par The British and Foreign Bible Society, Swindon, Angleterre, 1993.

 

NTG, Novum Testamentum Graece, by NESTLE-ALAND, (27e éd. rév.), Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 1996.

 

Online:

I. Tân Ước Hy Lạp

1. Nouveau Testament Grec - Francais. Nestle-Aland 26è Édition et Louis Segond 1910, Soleil d'Orient, 2004. [calameo].

2. Bản văn Tân Ước Hy Lạp - Pháp. 
3. Bản văn Tân Ước Hy Lạp (chữ thường). 
Có dịch từng từ Hy Lạp sang tiếng Anh (interlinear). [biblos].
4. Bản văn Tân Ước Hy Lạp (chữ hoa) - Anh. Có phần dịch từng từ Hy Lạp sang tiếng Anh (interlinear). [scripture4all].
5. Bản văn Tân Ước Hy Lạp. [titus].

6. Bản văn Tân Ước Hy Lạp. [myriobiblos].

7. Bản văn Tân Ước Hy Lạp. [kimmitt].

 

II. Cựu Ước Híp-ri và Hy Lạp (bản LXX)

1. Bản văn Cựu Uớc Híp-ri - Anh. Có phần dịch từng từ Híp-ri sang tiếng Anh (interlinear). [scripture4all]. 
2. L'Ancien Testament selon les LXX. Bản dịch Cựu Ước Hy Lạp LXX (bản 70) - Pháp, Soleil d'Orient, 2004. [calameo].

 

 

Các bản dịch Kinh Thánh

 

Bible OSTY,  La Bible, par OSTY, E.; TRINQUET, J., Paris, Le Seuil, 1973.

 

BJ, La Bible de Jérusalem, by ÉCOLE BIBLIQUE DE JÉRUSALEM, (dir.,), (Nouvelle édition revue et augmentée), Paris, Le Cerf, 2000.

 

BW, Bible Works

 

Kinh Thánh ấn bản 2011, (dịch giả: NHÓM PHIÊN DỊCH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ), Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2011. Online:http://kinhthanhchomoinguoi.org/bible/1/ 

 

NAB-RE, New American Bible, Revised Edition, 1991 – Present. Online: http://usccb.org/bible/books-of-the-bible/NJB, New Jerusalem Bible,  online http://www.catholic.org/bible/ RSV-SCE, Revised Standard Version - Second Catholic Edition,2006. Online: http://jmom.honlam.org/rsvce/
 

Sách Khải Huyền, Hy Lạp – Việt,  (dịch giả: Giuse LÊ MINH THÔNG), Nxb. Tôn Giáo, 2011, 288 tr.

 

Tân Ước, (bản dịch và chú thích có hiệu đính), (dịch giả:  NHÓM PHIÊN DỊCH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ), Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2008.

 

Tin Mừng Mác-cô, Hy Lạp – Việt,  (dịch giả: Giuse LÊ MINH THÔNG), Nxb. Phương Đông, 2011, 250 tr.

 

Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt, (dịch giả: Giuse LÊ MINH THÔNG), Nxb. Tôn Giáo, 2011, 340 tr.

 

TOB, La Bible, Traduction œcuménique, (Édition intégrale), Paris, Le Cerf - Société Biblique Française, 1988, (8è édition)

 

 

 

[2] - Các bước tìm hiểu một đoạn văn Kinh Thánh.

 

Ngày 06 tháng 09 năm 2013.

Giuse Lê Minh Thông, O.P.

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/09/cac-buoc-tim-hieu-mot-oan-van-kinh-thanh.html

 

- Câu hỏi gợi ý:

1) Cần làm gì trước khi áp dụng Lời Chúa vào cuộc sống? (Xem:Tinh thần và định hướng việc học Kinh Thánh).

2) Cho biết 4 bước chuẩn bị để phân tích bản văn.

3) Làm gì để phân đoạn một đoạn văn?

4) Làm gì để biết bối cảnh văn chương của một đoạn văn?

5) Mục đích của việc tìm cấu trúc đoạn văn là gì?

6) Làm sao để quan sát nhân vật, thời gian và không gian trong đoạn văn?

Sau các bước chuẩn bị phần phân tích đoạn văn sẽ được thực hiện như thế nào?

 


Nội dung

 

Dẫn nhập

I. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc

II. Các bước chuẩn bị phân tích đoạn văn

     1. Phân đoạn

     2. Bối cảnh văn chương

     3. Cấu trúc đoạn văn

     4. Quan sát nhân vật, thời gian và không gian

III. Gợi ý phân tích một số đoạn văn

     1. Ga 6,1-71

     2. Ga 11,1-54

     3. Ga 18,28–19,16a

Kết luận

 

 

Dẫn nhập

 

Tài liệu của Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng về Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội, năm 1993 (Bản dịch tiếng Việt: ỦY BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội, 2004, 156 tr.), đã trình bày tổng quát về các phương pháp đọc Kinh Thánh, đồng thời cho biết những điểm mạnh cũng như điểm yếu của mỗi phương pháp. Cuốn sách Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội nói đến 12 lối giải thích Kinh Thánh. Như thế, có nhiều phương pháp đọc Kinh Thánh. Trong tập sách trên, Ủy Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng dành cho “Phương pháp phê bình lịch sử” một vị trí quan trọng, bởi vì phương pháp này được trình bày đầu tiên và chi tiết hơn các lối tiếp cận khác. Kế đến là “Các phương pháp mới để phân tích văn chương” (tr. 35-53).

 

Nói chung, có thể xếp tất cả các phương pháp nghiên cứu Kinh Thánh thành hai loại: Tiếp cận lịch đại (approche diachronique) và tiếp cận đồng đại (approche synchronique). Xem mục “Tiếp cận lịch đại và tiếp cận đồng đại” trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư, tr.14-16.

 

Tiếp cận lịch đại đứng đầu với phương pháp phê bình lịch sử. Phương pháp này cố gắng tìm hiểu những gợi ý lịch sử trong bản văn, hay đưa ra những giả thuyết về các giai đoạn hình thành bản văn. Nhờ đó, hiểu được phần nào bản văn nói về điều gì.

 

Tiếp cận đồng đại được áp dụng trong các phương pháp phân tích văn chương, gồm các loại phân tích sau: (1) Phân tích tu từ học (analyse rhétorique). (2) Phân tích thuật chuyện (analyse narrative). (3) Phân tích cấu trúc (analyse structurelle). (4) Phân tích ký hiệu (analyse sémiotique). Những lối tiếp cận trên đều phân tích bản văn theo hướng đồng đại với những điểm nhấn khác nhau so với tiếp cận lịch đại. Nghĩa là thay vì chú trọng tìm hiểu xem “Bản văn nói về ĐIỀU GÌ” (CE DONT il parle) như trong phương pháp phê bình lịch sử (tiếp cận lịch đại), các lối phân tích văn chương (tiếp cận đồng đại) chú trọng tìm hiểu xem “Bản văn NÓI GÌ” (CE QU’il dit) và “NÓI NHƯ THẾ NÀO” (COMMENT il le dit).

 

Bài viết này sẽ trình bày sơ lược về (I) hai lối phân tích: “Phân tích thuật chuyện” và “phân tích cấu trúc”. Kế tiếp là phần trình bày (II)các bước chuẩn bị: Phân đoạn, bối cảnh, cấu trúc và quan sát các yếu tố: nhân vật, thời gian, không gian trong bản văn. Sau cùng là (III) gợi ý kết quả phân tích một số đoạn văn trong Tin Mừng Gio-an. Xem trình bày chi tiết về lý thuyết và áp dụng trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư.

 

I. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc

 

Đứng trước sự hạn chế của phương pháp phê bình lịch sử theo hướng lịch đại (diachronie) như đã trình bày trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư, tr. 17-28, phần lớn giới nghiên cứu Kinh Thánh ngày nay lựa chọn áp dụng các phương pháp phân tích văn chương theo hướng đồng đại (synchronie). Hai lối tiếp cận bản văn phổ biến hiện nay là (1) Phân tích thuật chuyện (analyse narrative) và (2) Phân tích cấu trúc (analyse structurelle). Những phương pháp phân tích văn chương này có nhiều lợi điểm. Có thể nêu lên một số điểm tích cực:

 

(1) Phân tích thuật chuyện và cấu trúc dựa trên bản văn. Độc giả có thể dựa vào bản văn để kiểm chứng xem phân tích có sức thuyết phục hay không.

 

(2) Phân tích thuật chuyện và cấu trúc nhắm đến ý nghĩa của bản văn, đi tìm thông điệp của bản văn dành cho độc giả. Thông điệp này có thể là một lời khích lệ, động viên độc giả, có thể là một lời mời gọi hay là lời chất vấn dành cho độc giả. Như thế, ý nghĩa của bản văn tác động đến cuộc sống của độc giả. Nghĩa là bản văn có khả năng mang lại sức sống cho độc giả và làm cho cuộc đời độc giả có ý nghĩa hơn.

 

(3) Dữ liệu để phân tích là chính bản văn, vì thế phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc vừa tầm tay của mọi người. Chỉ cần đọc kỹ bản văn Kinh Thánh và áp dụng phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc là có thể đọc ra được ý nghĩa của bản văn. Ý nghĩa này liên quan thiết thực đến cuộc sống của độc giả trong từng hoàn cảnh cụ thể.

 

II. Các bước chuẩn bị phân tích đoạn văn

 

Để bắt đầu phân tích một đoạn văn, điều quan trọng cần làm trước là đọc kỹ và chú ý quan sát bản văn. Giai đoạn chuẩn bị này gồm các bước: (1) Phân đoạn, nghĩa là cho biết lý do tại sao lại chọn đoạn văn như thế để phân tích; (2) Đặt đoạn văn vào bối cảnh văn chương của nó. (3) Tìm hiểu cấu trúc của đoạn văn. (4) Quan sát các yếu tố: Nhân vật, thời gian và không gian trong bản văn. Trong quá trình thực hiện các bước trên cần ghi nhận những điểm lạ lùng, khó hiểu và bất hợp lý (nếu có) trong câu chuyện. Những quan sát này sẽ giúp phân tích bản văn cách hiệu quả, hầu tìm ra thông điệp của bản văn dành cho độc giả.

 

     1. Phân đoạn

 

Sau khi chọn một đoạn văn để phân tích, bước chuẩn bị thứ nhất là lý giải phân đoạn của đoạn văn ấy. Câu hỏi đặt ra: Tại sao lại bắt đầu đọc đoạn văn ở câu này và kết thúc ở câu kia? Tại sao không chọn đoạn văn ngắn hơn hay dài hơn để đọc? Những dấu hiệu nào trong bản văn cho phép nói rằng: Đoạn văn được chọn để phân tích là một đơn vị văn chương tương đối độc lập và có ý nghĩa?

 

Phân đoạn một đoạn văn đóng vai trò quan trọng, vì nó có thể làm thay đổi ý nghĩa của đoạn văn. Nếu phân đoạn không đúng sẽ làm cho đoạn văn trở nên khó hiểu vì chưa đầy đủ các yếu tố để phân tích. Chẳng hạn, nếu chọn dụ ngôn “Nói và làm của hai người con” trong Tin Mừng Mát-thêu (Mt 21,28-32) là một đoạn văn độc lập để phân tích là chưa hợp lý. Bởi vì đoạn văn này bắt đầu như sau: “Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho’…” (Mt 21,28). Khi bắt đầu đoạn văn như thế, độc giả sẽ không biết ai đang nói và nói với ai. Cần mở rộng đoạn văn này về phía trước mới có thể biết tại sao lại có dụ ngôn này. Như thế, dụ ngôn “Nói và làm của hai người con” (Mt 21,28-32) là một tiểu đoạn của một đoạn văn lớn hơn (Mt 21,23-46). (Xem bài viết: “Phương pháp đọc Kinh Thánh: Bối cảnh và cấu trúc Mt 21,28-32”).

 

Về trình thuật Ni-cô-đê-mô trong Tin Mừng Gio-an, độc giả cũng không thể bắt đầu câu chuyện Ni-cô-đê-mô đến gặp Đức Giê-su ban đêm ở Ga 3,1. Thực vậy, khi đọc Ga 3,1-2a: “ 1 Có một người trong những người Pha-ri-sêu, tên ông ấy là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của những người Do Thái. 2a Ông này đến gặp Người ban đêm và nói với Người:…”, độc giả sẽ không biết Ni-cô-đê-mô đến gặp ai và nói với ai, bởi vì 3,2a dùng đại từ ngôi thứ ba số ít “Người”. Cần đọc lên phía trước để biết nhân vật này là ai.

 

Đoạn văn trước Ga 3,1 là Ga 2,23-25 sẽ cho độc giả biết nhân vật ấy là Đức Giê-su. Người thuật chuyện kể ở Ga 2,23-25 như sau: “23 Trong lúc Người ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, nhiều kẻ đã tin vào danh của Người khi thấy các dấu lạ mà Người đã làm. 24 Nhưng Đức Giê-su, chính Người không tin họ, vì Người biết tất cả, 25 và Người không cần có ai làm chứng về con người, vì chính Người biết có gì nơi con người.” Đoạn văn này cho biết tên của Đức Giê-su (2,24), đồng thời dẫn vào đề tài “biết” trong đoạn văn tiếp theo (3,1-12). Đề tài “biết – không biết” sẽ được triển khai trong trình thuật Ni-cô-đê-mô trao đổi với Đức Giê-su (3,1-12). Như thế, cần đọc trình thuật Ni-cô-đê-mô đến gặp Đức Giê-su từ câu 2,24 thì mới hiểu trọn vẹn ý nghĩa câu chuyện.

 

Trong một đoạn văn, lại có nhiều đơn vị văn chương nhỏ hơn. Có thể chọn phân tích một vài đơn vị văn chương trong một đoạn văn. Nhưng vẫn cần tìm ra giới hạn của một đoạn văn tương đối độc lập và có ý nghĩa trước khi tìm hiểu các đơn vị văn chương nhỏ hơn. Bước tiếp theo là đặt đoạn văn vào bối cảnh văn chương của đoạn văn ấy.

 

     2. Bối cảnh văn chương

 

Sau khi lý giải việc phân đoạn, độc giả đã có một đoạn văn tương đối độc lập để phân tích. Bước tiếp theo là quan sát bối cảnh văn chương của đoạn văn ấy. Nghĩa là tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra trước đoạn văn được chọn và điều gì tiếp diễn sau đoạn văn ấy. Có thể trả lời các câu hỏi: Đoạn văn đứng trước và đoạn văn kế sau có liên hệ gì với đoạn văn được chọn hay không? Đoạn văn được chọn để phân tích thuộc phần nào của sách Tin Mừng và đề tài chính của phần này là gì?

 

Cần phân biệt bối cảnh văn chương với bối cảnh lịch sử. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc không chú trọng đến bối cảnh lịch sử, vì dữ liệu lịch sử vượt ra khỏi giới hạn của bản văn. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc tập trung vào bối cảnh văn chương của đoạn văn. Nghĩa là bối cảnh của câu chuyện qua những tình tiết được kể trong bản văn.

 

Việc đặt một đoạn văn vào bối cảnh văn chương của nó đã định hướng phần nào cách hiểu đoạn văn ấy. Tìm hiểu bối cảnh văn chương, góp phần làm cho những kết luận độc giả rút ra sau khi phân tích sẽ không xa lạ với mạch văn. Xem bài viết: “Phương pháp đọc Kinh Thánh: Bối cảnh và cấu trúc Mt 21,28-32”. Sau khi đặt đoạn văn sẽ phân tích vào bối cảnh văn chương rộng lớn hơn, bước tiếp theo là quan sát chính bản văn đã chọn để xem đoạn văn ấy được cấu trúc như thế nào.

 

     3. Cấu trúc đoạn văn

 

Xem bài viết: “Phương pháp đọc KT: Cấu trúc một đoạn văn”.

 

     4. Quan sát nhân vật, thời gian và không gian

 

Xem bài viết: Tìm hiểu “cấu trúc”, “nhân vật”, “thời gian” và “không gian” trong Ga 13,1-32: Giờ đã đến, Giờ yêu thương đến cùng, rửa chân và Giu-đa nộp Thầy.

 

III. Gợi ý phân tích một số đoạn văn

 

Sau khi đã dành thời gian thích hợp để quan sát kỹ bản văn qua các bước như trên: (1) Giới hạn đoạn văn, (2) Bối cảnh văn chương, (3) Cấu trúc, (4) Quan sát các yếu tố: nhân vật, thời gian và không gian, độc giả có thể phân tích các đề tài gợi ra trong bản văn. Nhờ các bước chuẩn bị, độc giả đã có thể trả lời được những câu hỏi: Câu chuyện nói về đề tài gì? Các ý tưởng được trình bày như thế nào? Các chi tiết được sắp xếp ra sao? Bản văn sử dụng từ ngữ nào? Đâu là ý tưởng được nhấn mạnh? Điều gì bản văn nói tới và điều gì bản văn không nói tới? v.v...

 

Dựa vào các bước chuẩn bị, độc giả có thể chọn phân tích những ý tưởng ưa thích trong bản văn. Khi dành thời gian để quan sát kỹ bản văn qua những bước chuẩn bị trên đây, độc giả có thể khám phá ra những điều mới mẻ và thú vị trong bản văn, nhất là độc giả có thể nhận ra thông điệp của bản văn dành cho độc giả trong từng hoàn cảnh riêng của mình.

 

Điều bản văn muốn trao vào tay độc giả có thể là một lời động viên trong hoàn cảnh khó khăn, một lời khích lệ, hay một lời mời gọi sám hối và vững tin vào Đức Giê-su. Như thế, câu chuyện thuật lại trong Kinh Thánh không chỉ là câu chuyện của quá khứ mà câu chuyện ấy có khả năng biến đổi cuộc đời độc giả và làm cho độc giả tìm được của ăn đích thực. Đọc Kinh Thánh với tinh thần tôn trọng bản văn và để Lời Chúa nói với mình, độc giả sẽ tìm được lương thực không hư nát. Đó là “Lời sự sống”, “bánh sự sống” và “nước sự sống” cho cuộc đời này.

 

Những minh họa trên đây đã không phân tích hoàn chỉnh một đoạn văn mà chỉ đưa ra những ví dụ ở nhiều đoạn văn khác nhau để trình bày phương pháp đọc Kinh Thánh. Độc giả có thể tham khảo ba đoạn văn được phân tích khá hoàn chỉnh theo các bước trên: (1) Ga 6,1-71; (2) Ga 11,1-54; (3) Ga 18,28–19,16a trong tập sách:Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư,tr. 109-220. Những kết quả đạt được nhờ phân tích thuật chuyện và cấu trúc ba đoạn văn trên được tóm tắt dưới đây.

 

     1. Ga 6,1-71

 

Ga 6 là một chương rất đặc thù theo kiểu trình bày thần học Tin Mừng Gio-an (Xem “Ga 6,22-71: ‘Thánh Thể’, lý trí và đức tin” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc, tr. 110-146). Ga 6 gồm hai dấu lạ (Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều và đi trên mặt Biển Hồ) kèm theo một diễn từ, vừa để giải thích dấu lạ, vừa triển khai thần học liên quan đến nguồn gốc và sứ vụ của Đức Giê-su. Ga 6 không chỉ gợi ý về bí tích Thánh Thể, mà nhấn mạnh đến ba đề tài tranh luận vào thời Đức Giê-su, cũng như gợi đến tranh luận vào thời cộng đoàn Gio-an cuối thế kỷ I và còn tiếp diễn đến ngày nay. Ba câu hỏi tranh luận:

 

(1) Ai có khả năng ban bánh bởi trời (6,30-36)?

(2) Tại sao Đức Giê-su là con ông Giu-se mà lại là Đấng từ trời xuống (6,41-42)?

(3) Làm thế nào Đức Giê-su có thể ban sự sống bằng thịt và máu của Người, nghĩa là bằng sự chết của Người?

 

Đây là những tranh luận qua mọi thời đại dành cho những người chưa tin, cũng như dành cho những người đã tin. Cụ thể là sau khi thấy dấu lạ và nghe diễn từ nhiều môn đệ đã thốt lên: “Lời này chướng tai quá! Ai có thể nghe nổi?” (6,60) và nhiều môn đệ đã bỏ đi không làm môn đệ Đức Giê-su nữa (6,66). Độc giả trả lời thế nào về ba câu hỏi trên?

 

      2. Ga 11,1-54

 

Đoạn văn Ga 11,1-54 thường có tựa đề là “Anh La-da-rô sống lại”, nhưng việc La-da-rô sống lại chỉ được kể lại trong 4 câu (11,41-44), phần còn lại của đoạn văn (50 câu) nói về hai cái chết: Cái chết của La-da-rô (11,1-40) và cái chết của Đức Giê-su (11,47-54). Thực vậy, Thượng Hội Đồng Do Thái quyết định giết Đức Giê-su trong đoạn văn 11,47-54. Hơn nữa, La-da-rô được Đức Giê-su làm cho sống lại ở 11,43, nhưng anh ấy lại phải đối diện với cái chết ở ngay chương sau đó (12,10-11). Người thuật chuyện cho biết: “10 Các thượng tế quyết định giết cả La-da-rô, 11 vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ đi và tin vào Đức Giê-su” (12,10-11).

 

Như thế, việc La-da-rô sống lại có ý nghĩa gì? Tại sao Đấng có quyền làm cho La-da-rô sống lại từ cõi chết lại không thể làm cho mình khỏi chết? Tại sao Đức Giê-su làm cho La-da-rô sống lại mà không làm cho các môn đệ của Người hay làm cho người tin được sống lại thể lý? Khi phân tích bản văn Ga 11,1-54 theo phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc, độc giả nhận ra rằng:

 

Việc La-da-rô bị bệnh, chết rồi được sống lại là một dấu lạ (dấu chỉ). Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đó để nói về sự chết và sự sống lại của chính Người, đồng thời nói về sự chết và sự sống của người tin qua mọi thời đại. Niềm tin và niềm hy vọng lớn lao dành cho độc giả liên quan đến sự sống và sự chết đã được Đức Giê-su mặc khải ở 11,25-26, khi Người nói với Mác-ta: “25 Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống, 26 và tất cả những ai sống và tin vào Thầy, muôn đời sẽ không chết.” Độc giả có dám tin và sống lời này không? Như thế, tựa đề đầy đủ của đoạn văn Ga 11,1-54 liên quan đến ba nhân vật: Chết và sống của La-da-rô, chết và sống của Đức Giê-su, chết và sống của người tin.

 

     3. Ga 18,28–19,16a  

 

Đoạn văn Ga 18,28–19,16a độc đáo và thú vị trong cách diễn tả đề tài “vương quyền của Đức Giê-su”. Người ta thường đặt tựa đề cho đoạn văn này là “Đức Giê-su bị kết án tử hình” hay “Phi-la-tô xét xử Đức Giê-su”. Nhưng cả hai tựa đề này ngược với điều bản văn muốn diễn tả. Không chỗ nào trong bản văn nói về lời tuyên án của Phi-la-tô dành cho Đức Giê-su. Ngược lại, chính Đức Giê-su kết tội những kẻ chống đối và kết tội Phi-la-tô. Đức Giê-su nói với Phi-la-tô: “Ông không có quyền gì đối với Tôi, nếu nó không được ban cho ông từ trên, vì điều này, kẻ nộp Tôi cho ông có tội lớn hơn” (19,11). Những kẻ nộp Đức Giê-su và kể cả Phi-la-tô đều là những người có tội, nhưng tội của những kẻ chống đối thì lớn hơn. Thực ra, đoạn văn Ga 18,28–19,16a trình bày cho độc giả ba sự thật:

 

(1) Sự thật về những kẻ chống đối Đức Giê-su.

(2) Sự thật về Phi-la-tô.

(3) Sự thật về Đức Giê-su.

 

Ba sự thật này được xây dựng trên đề tài trọng tâm: “Vương quyền của Đức Giê-su”. Người là Vua và Người đang thi hành quyền xét xử trong lúc Người không có một chút quyền hành trần thế nào. Có thể tóm kết đề tài sự thật trong bản văn như sau:

 

(1) Trước hết là sự thật về những kẻ chống đối (những người Do Thái, các thượng tế và các thuộc hạ). Họ đã quyết định giết Đức Giê-su và tìm mọi lý do để giết chết Người. Họ đã đạt được mục đích nhưng phải trả giá bằng chính niềm tin của họ. Họ đã tuyên xưng Xê-da là vua của họ thay vì Thiên Chúa (19,15).

 

(2) Kế đến là sự thật về Phi-la-tô. Ông ấy là người không dám đối diện với sự thật, không dám làm công việc xét xử theo sự thật. Phi-la-tô không thuộc về sự thật và không thi hành quyền theo sự thật. Cuối cùng Phi-la-tô không xét xử Đức Giê-su mà trao Đức Giê-su cho những kẻ chống đối để Người bị đóng đinh vào thập giá. Phi-la-tô đã sợ thất sủng với Xê-da (19,12).

 

(3) Sau cùng là Sự thật về Đức Giê-su. Bản văn làm lộ ra Đức Giê-su thực sự là Vua. Cho dù vương quốc của Người không thuộc về thế gian này, nhưng Người thi hành quyền phán quyết trong thế gian này. Người đã tuyên bố ai là kẻ có tội (19,11). Người được đặt ngồi trên toà, nơi vị thẩm phán tuyên bố lời xét xử. Vương quyền của Đức Giê-su được trình bày cách mạnh mẽ và rõ ràng, không mập mờ dị nghĩa, bởi vì vương quyền đích thực của Đức Giê-su được bày tỏ trong lúc Người không có một chút quyền bính trần thế nào cả.

 

Yếu tố thời gian trong đoạn văn cũng đáng được chú ý. Đoạn văn Ga 18,28–19,16a bắt đầu lúc tờ mờ sáng (18,28) và kết thúc vào giờ thứ sáu (19,14) tức là 12 giờ trưa. Giữa thanh thiên bạch nhật mọi sự thật trong lòng con người được bản văn làm lộ ra. Như thế, câu chuyện mời gọi độc giả đón nhận vương quyền của Đức Giê-su, đứng về phía sự thật để lắng nghe giáo huấn của Người, từ đó dám sống theo sự thật và làm theo sự thật.

 

Kết luận

 

Đọc qua phần trình bày trên đây, độc giả có thể nghĩ phương pháp đọc Kinh Thánh này phức tạp và mất nhiều thời gian. Thực ra, đây là cách đọc đơn giản, giúp độc giả hiểu được ý nghĩa của bản văn. Đơn giản vì ý nghĩa của bản văn ở ngay trong bản văn, chỉ cần biết cách tìm ra ý nghĩa của nó. Bước đầu áp dụng phương pháp sẽ thấy xa lạ nhưng với thời gian, độc giả sẽ thấy phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc là cách đọc có khả năng làm cho độc giả được nuôi dưỡng, được biến đổi và được sống nhờ Lời sự sống Đức Giê-su ban tặng. Tất cả đều dựa trên bản văn, độc giả không cần phải có kiến thức cao siêu về Kinh Thánh hay về lịch sử. Chỉ cần biết cách quan sát và phân tích, từ đó độc giả sẽ thấy mỗi đoạn văn là một viên ngọc quý được chôn dấu trong lớp vỏ bên ngoài là câu chuyện. Độc giả sẽ nhận ra Kinh Thánh thực sự là một kho tàng đang chờ được khám phá. Nhờ kho tàng ấy, cuộc đời của độc giả thêm phong phú và thú vị.

 

Khi áp dụng phương pháp độc giả có thể thấy phức tạp, nhưng nếu nhìn nhận rằng: Kinh Thánh là Lời Thiên Chúa mặc khải cho con người, Lời này vừa bí ẩn, vừa hấp dẫn, vừa lôi cuốn, thì độc giả đã có bước khởi đầu đúng hướng. Với thời gian, đôc giả sẽ dần dần biết cách áp dụng phương pháp cách uyển chuyển và sáng tạo để khám phá những nét hay nét đẹp của bản văn. Không nên nghĩ là đã hiểu được bản văn, và như thế không cần tìm hiểu gì thêm nữa. Ngược lại, hãy đọc kỹ câu chuyện với tinh thần tôn trọng bản văn.

 

Có thể nói, điều thú vị nhất khi học hỏi Kinh Thánh không chỉ là để biết, để hiểu, mà là để sống với Lời mặc khải, để chiêm ngắm nét hay nét đẹp, nét độc đáo trong bản văn. Nhờ đó Lời mặc khải sẽ làm cho người đọc “được sống”, đồng thời, người đọc cũng thổi sinh khí vào Kinh Thánh và làm cho bản văn “có sinh khí”. Bởi vì một cuốn sách trên kệ sách là một cuốn sách đang chờ người đọc. Cuốn sách chỉ thực sự phát huy tác dụng của nó khi nằm trong tay người đọc. Vấn đề còn lại là đọc như thế nào để hiểu được ý nghĩa của câu chuyện. Bài viết này trình bày vắn tắt về xu hướng học hỏi và tìm hiểu Kinh Thánh ngày nay, với hy vọng giúp mọi người tìm được niềm vui và thú vị khi đến với Lời Chúa./.

 

 

 

Các bài viết liên quan

 

   a * Bối cảnh và cấu trúc Mt 21,28-32: Cấu trúc một đoạn văn.

 


Dẫn nhập

 

Bài viết bàn về tầm quan trọng của việc đặt một đoạn văn vào “bối cảnh văn chương” và tìm hiểu “cấu trúc” để hiểu ý nghĩa của đoạn văn ấy. Đây là những bước quan trọng của phương pháp đọc Kinh Thánh. Bài viết chọn đoạn văn Mt 21,28-32 (Chúa Nhật XXVI thường niên, năm A) làm ví dụ. Có thể tạm gọi đoạn văn Mt 21,28-32 là “dụ ngôn về nói và làm của hai người con”. Tuy nhiên, tựa đề này chưa lột tả hết nội dung của đoạn văn Mt 21,28-32. Cần đặt đoạn văn này vào bối cảnh văn chương của nó và tìm hiểu cấu trúc mới có thể khám phá ra những nét hay, những nét tương phản mạnh mẽ trong bản văn. Các trích dẫn bản văn Tin Mừng Mát-thêu trong bài viết được lấy từ bản dịch của Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ. Bản văn Mt 21,28-32 như sau:

 

[Mt 21,28-32] 28 Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai.Ông ta đến nói với người thứ nhất: "Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho." 29 Nó đáp: "Con không muốn đâu!" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. 30 Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: "Thưa ngài, con đây!" nhưng rồi lại không đi. 31 Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?" Họ trả lời: "Người thứ nhất." Đức Giê-su nói với họ: "Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy."

 

Đoạn Tin Mừng Mt 21,28-32 kể câu chuyện về hai người con. Người con thứ nhất “nói không đi làm” nhưng sau đó hối hận và “đi làm”. Người con thứ hai bày tỏ thái độ sẵn sàng, nhưng rồi lại không đi làm vườn nho. Đức Giê-su dùng câu chuyện này để đưa ra nhận định về những người đang nghe, Người nói với họ: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (21,31). Nếu mở sách Tin Mừng Mát-thêu và chỉ đọc đoạn văn Mt 21,28-32 như trích dẫn trên đây, độc giả sẽ thấy khó hiểu vì bản văn bắt đầu bằng: “Các ông nghĩ sao: Một người kia có hai con trai…” Độc giả không biết ai đang nói và nói với ai. Mãi đến câu 21,31b bản văn cho biết là Đức Giê-su đang nói với “họ”, nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi liên quan đến đoạn văn Mt 21,28-32, chẳng hạn:

 

  1. Tại sao Đức Giê-su kể dụ ngôn “nói và làm của hai người con” và kể với mục đích gì?
  1. Nhân vật “họ” trong bản văn được Đức Giê-su nói đến ở ngôi thứ hai số nhiều: “Các ông”. Nhân vật này là ai?
  1. Tại sao câu chuyện đặt song song “người con thứ nhất” với “những người thu thuế và những cô gái điếm” và “người con thứ hai” với “các ông”?
  1. Tại sao Đức Giê-su nhắc đến nhân vật Gio-an Tẩy Giả và nói đến “tin vào ông ấy” trong đoạn văn 21,28-32?
  1. Dựa vào đâu để Đức Giê-su có thể nhận định: Những người nghe (các ông) không chịu hối hận mà tin vào Gio-an Tẩy Giả (21,32)?
  1. Dựa vào đâu để gọi câu chuyện Mt 21,28-32 là một dụ ngôn, trong khi không có từ “dụ ngôn” (parabolê) trong đoạn văn Mt 21,28-32?
  1. Trình thuật 21,28-32 có giọng văn tranh luận và kết án. Tại sao có giọng văn này và tranh luận khởi đầu và kết thúc như thế nào?

Tóm lại, khi đọc đoạn văn Mt 21,28-32, độc giả gặp nhiều câu hỏi do bản văn gợi lên. Độc giả có thể trả lời những câu hỏi trên nếu đặt đoạn văn Mt 21,28-32 trong bối cảnh văn chương của trình thuật trước và sau câu chuyện này. Tìm hiểu cấu trúc của đoạn văn lớn hơn Mt 21,23-46 sẽ góp phần thiết thực trong việc tìm hiểu ý nghĩa của đoạn văn 21,28-32. Phần sau đây sẽ đặt trình thuật Mt 21,28-32 trong bối cảnh văn chương và tìm hiểu cấu trúc đoạn văn này qua bốn mục:

I)    Mt 21,23-27: Trình thuật trước đoạn văn Mt 21,28-32.

II)   Mt 21,33-44: Trình thuật sau đoạn văn Mt 21,28-32.

III)  Mt 21,45-46: Kết luận chung cho Mt 21,23-44.

IV)  Cấu trúc đoạn văn Mt 21,23-46.

 

I) Mt 21,23-27: Trình thuật trước đoạn văn Mt 21,28-32

 

Trình thuật trước đoạn văn Mt 21,28-32 là Mt 21,23-27. Đoạn văn này cho biết cuộc tranh luận xảy ra trong hoàn cảnh nào, tranh luận về đề tài gì và tranh luận với ai. Người thuật chuyện kể:

 

[Mt 21,23-27] 23 Đức Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi: "Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?" 24 Đức Giê-su đáp: "Còn tôi, tôi chỉ xin hỏi các ông một điều thôi; nếu các ông trả lời được cho tôi, thì tôi cũng sẽ nói cho các ông biết tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy. 25 Vậy, phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?" Họ mới nghĩ thầm: "Nếu mình nói: "Do Trời", thì ông ấy sẽ vặn lại: "Thế sao các ông lại không tin ông ấy?" 26 Còn nếu mình nói: "Do người ta", thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ." 27 Họ mới trả lời Đức Giê-su: "Chúng tôi không biết." Người cũng nói với họ: "Tôi cũng vậy, tôi không nói cho các ông là tôi lấy quyền nào mà làm các điều ấy."

 

Trình thuật Mt 21,23-27 trên đây có nhiều điểm soi sáng cho trình thuật tiếp theo Mt 21,28-32 (dụ ngôn “nói và làm của hai người con”). Có thể liệt kê sáu chi tiết sau đây:

 

1) “Các ông” là “các thượng tế và các kỳ mục”

 

Trước hết, bối cảnh chung của trình thuật là Đức Giê-su đang giảng dạy ở Đền Thờ: “Đức Giê-su vào Đền Thờ, và trong khi Người giảng dạy, các thượng tế và kỳ mục trong dân đến gần Người và hỏi:…” (Mt 21,23a). Bản văn cho biết Đức Giê-su đang giảng dạy, nhưng không cho biết nội dung giảng dạy. Điều quan trọng là “Đức Giê-su giảng dạy” và sự kiện “Đức Giê-su giảng dạy” là mối bận tâm của giới lãnh đạo Do Thái. Vì thế, đoạn văn đi thẳng vào vấn đề tranh luận liên quan đến quyền giảng dạy của Đức Giê-su. Các thượng tế và các kỳ mục chất vấn Đức Giê-su: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt 21,23b) Những người đặt câu hỏi là “các thượng tế” (hoi arkhiereis) và “các kỳ mục” (hoi presbuteroi).

 

Như thế, nhờ chi tiết trong đoạn văn 21,32-27 mà độc giả biết Đức Giê-su nói dụ ngôn “nói và làm của hai người con” (Mt 21,27-32) với ai và cho ai. Đại từ ngôi thứ hai số nhiều “Các ông” trong đoạn văn Mt 21,28-31 là “các thượng tế” và “các kỳ mục”. Tuy nhiên, không chỉ có hai nhóm nhân vật này. Phần kết luận của các trình thuật (21,45-46) sẽ cho biết còn có nhóm nhân vật “ những người Pha-ri-sêu” (21,45) hiện diện ở đó nữa. Nhóm nhân vật này sẽ được bàn đến trong phần kết luận (21,45-46) của đoạn văn 21,23-44.

 

2) Nhân vật Gio-an Tẩy Giả

 

Đức Giê-su nói đến nhân vật Gio-an Tẩy Giả trong câu hỏi Người đặt ra cho các thượng tế và kỳ mục: “Phép rửa của ông Gio-an do đâu mà có? Do Trời hay do người ta?” (21,25). Đề tài “phép rửa của Gio-an Tẩy Giả”, được trình bày ở Mt 3,1-12, nối kết với đề tài “hối hận”, “hối cải” của người con thứ nhất và “không hối hận” của nhân vật “các ông” trong đoạn văn Mt 21,28-32. Như thế, Mt 21,28-32 vừa nối đến với đoạn văn trước nó (Mt 21,23-27), vừa gợi lại việc rao giảng của Gio-an Tẩy Giả đầu Tin Mừng Mát-thêu. Đặt 21,28-32 vào bối cảnh văn chương của đoạn văn và bối cảnh chung của sách Tin Mừng giúp hiểu ý nghĩa của việc “tin vào Gio-an Tẩy Giả” được nói đến hai lần ở 21,25b và 21,32a.

 

3) Đề tài “Tin vào Gio-an Tẩy Giả”

 

Những điều “nghĩ thầm” của “các thượng tế và kỳ mục trong dân” được thuật lại ở 21,25b: “Họ mới nghĩ thầm: Nếu mình nói: ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại: ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy?’” Câu này quan trọng vì chính “các thượng tế và kỳ mục” xác nhận là Đức Giê-su biết họ không tin vào Gio-an Tẩy Giả. Nhờ những chi tiết trong “ý nghĩ của họ”, được người thuật chuyện kể ra, mà độc giả biết được  lời nói của Đức Giê-su trong đoạn văn sau là có cơ sở: “Phần các ông [các thượng tế và kỳ mục], khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy [Gio-an Tẩy Giả]” (Mt 21,32). Một trong những đề tài nối kết hai đoạn văn 21,28-32 và 21,23-37 là “tin vào Gio-an Tẩy Giả”.

 

4) Bối cảnh tranh luận và xung đột

 

Trong trình thuật “câu hỏi về quyền của Đức Giê-su” (Mt 21,23-27), bản văn đặt tương quan giữa Đức Giê-su với “các thượng tế và kỳ mục” (giới lãnh đạo Do Thái) trong bối cảnh tranh luận và xung đột khá căng thẳng. Cụ thể là lời chất vấn của các thượng tế và kỳ mục (21,23b) được Đức Giê-su trả lời bằng một lời chất vấn khác (21,24-25a). Kết quả là các thượng tế và kỳ mục đã không có câu trả lời vì Đức Giê-su đã dồn họ vào chân tường. Họ hiểu rõ câu hỏi của Đức Giê-su khi nghĩ rằng: “25 Nếu mình nói: ‘Do Trời’, thì ông ấy sẽ vặn lại: ‘Thế sao các ông lại không tin ông ấy?’ 26 Còn nếu mình nói: ‘Do người ta’, thì mình sợ dân chúng, vì ai nấy đều cho ông Gio-an là một ngôn sứ” (21,25b-26). Trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, họ đành chịu thua và trả lời Đức Giê-su: “Chúng tôi không biết” (Mt 21,27). Điều độc đáo của bản văn là họ trả lời “không biết” nhưng thực ra họ biết rất rõ. Về hình thức thuật chuyện, họ không trả lời cho Đức Giê-su, nhưng độc giả lại biết có hai cách trả lời: “Phép rửa của Gio-an Tẩy Giả do Trời” và “phép rửa của Gio-an Tẩy Giả do người ta” (21,25b-26). Dầu vậy, theo điều kiện Đức Giê-su đặt ra trước đó, Người cũng không trả lời câu hỏi của họ liên quan đến quyền bính của Người.

 

Nếu trình thuật kết thúc ở đây thì chưa trọn vẹn, vì độc giả cũng muốn biết những điều liên quan đến quyền của Đức Giê-su. Độc giả được mời gọi đọc tiếp phần sau và mạch văn cho phép hiểu như sau: Trong đoạn văn 21,23-27, Đức Giê-su không trả lời câu hỏi về quyền của Người bằng lời nói, nhưng trong hai đoạn văn tiếp theo (21,27-32 và 21,33-44), Đức Giê-su thi hành quyền của Người. Chính trong bối cảnh tranh luận khá căng thẳng trong đoạn văn 21,23-27 mà Đức Giê-su kể trình thuật “nói và làm của hai người con” (Mt 21,28-32). Trong dụ ngôn này, Đức Giê-su bày tỏ quyền phán quyết của Người khi Người nói với họ: “31b Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. 32 Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (21,31b-32).

 

5) “Hối hận”, “sám hối” và “tin”

 

Bối cảnh tranh luận và chống đối trong đoạn văn Mt 21,23-27 giúp độc giả hiểu tại sao trong đoạn văn tiếp theo (Mt 21,28-32), Đức Giê-su đặt song song “người con thứ nhất” với “những người thu thuế và những cô gái điếm” và đặt song song “người con thứ hai” với “các ông”, tức là “các thượng tế và kỳ mục trong dân”.

 

Hình ảnh song song này nối kết với đề tài “hối hận” (metamelomai) và lời rao giảng sám hối (metanoeô) của Gio-an Tẩy Giả đầu Tin Mừng Mát-thêu. Gio-an Tẩy Giả mời gọi: “Anh em hãy sám hối (metanoeite), vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 3,2). Để có thể “sám hối” (động từ metanoeô), con người cần “hối hận”, “hối tiếc” (động từ metamelomai) về những gì mình đã nói, đã làm. Cả hai động từ metanoeô (sám hối) metamelomai (hối hận) đều có gốc từ meta- và đều có nghĩa “sám hối” (repent). Như thế, khi đặt đoạn văn 21,38-32 vào bối cảnh văn chương và nối kết với đoạn văn trước (21,23-28) cho phép độc giả hiểu rằng: Nếu không “hối cải” và “tin” thì tranh luận chỉ là vô ích. Chính vì thế mà trong đoạn văn Mt 21,23-27, Đức Giê-su không trả lời cho những kẻ không tin và chống đối Người. Thay vì trả lời, trong đoạn văn tiếp theo (21,28-32), Đức Giê-su cho biết tại sao Người không trả lời những kẻ chất vất. Đó là vì họ không sám hối và không tin.     

 

6) “Các thượng tế và các kỳ mục” là “người con thứ hai”

 

Nhờ trình thuật trong đoạn văn trước (Mt 21,23-27) mà độc giả xác định được đối tượng đang nghe Đức Giê-su trong đoạn văn 21,28-32 là những kẻ chống đối và không tin vào lời rao giảng sám hối của Gio-an Tẩy Giả. Khi đọc trình thuật 21,28-32 trong bối cảnh tranh luận và xung đột, độc giả hiểu ý nghĩa câu Đức Giê-su hỏi những kẻ chất vấn Người ở 21,31a: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” Họ (các thượng tế và các kỳ mục) trả lời: “Người thứ nhất” (21,31b).

 

So sánh với trình thuật trước đó độc giả sẽ thấy điều tương phản thú vị: Các thượng tế và kỳ mục trong dân hỏi Đức Giê-su về quyền giảng dạy của Người, Đức Giê-su trả lời bằng cách chất vấn họ và Người không cho họ lời giải đáp (Mt 21,23-27). Ngược lại, trong trình thuật tiếp theo (Mt 21,28-32), Đức Giê-su kể một câu chuyện và Người đặt một câu hỏi mà câu trả lời đã có trong câu chuyện. Cách kể dụ ngôn đòi buộc bất cứ ai muốn trả lời đúng đều phải nói: “Người thứ nhất” (21,31).

 

Như thế, tuy không trả lời về nguồn gốc quyền bính của Đức Giê-su trong đoạn văn 21,23-27, nhưng chính Người đang thi hành quyền bính trong đoạn văn tiếp theo (21,27-32) qua hai chi tiết: 1) Đức Giê-su dẫn dắt câu chuyện và buộc những người chống đối phải trả lời theo hướng đã được gợi ý trong dụ ngôn. 2) Câu trả lời đúng của họ lại trở thành lời tố cáo họ. Bởi vì “các thượng tế và kỳ mục trong dân” không ở trong địa vị của người con thứ nhất, nghĩa là họ là những người không hối cải và không thực thi ý định của Thiên Chúa. Điều trớ trêu là câu trả lời của các thượng tế và các kỳ mục: “Người thứ nhất” (21,31b) là đúng, nhưng họ không phải là người con thứ nhất!

 

Tóm lại, đoạn văn 21,27-32 chỉ bộc lộ hết ý nghĩa và sức mạnh của nó khi được nối kết với đoạn văn trước nó: 21,23-27. Có thể nói hai đoạn văn Mt 21,23-27 (chất vấn về quyền bính của Đức Giê-su) và Mt 21,28-32 (dụ ngôn “nói và làm của hai người con”), vừa nối kết vừa soi sáng cho nhau, giúp độc giả hiểu được ý nghĩa và sức mạnh của bản văn. Câu hỏi: Tại sao gọi trình thuật “nói và làm của hai người con” (21,28-32) là một “dụ ngôn” sẽ được làm rõ khi nối kết đoạn văn 21,28-32 với đoạn văn tiếp theo 21,33-44.

 

II) Mt 21,33-44: Trình thuật sau đoạn văn Mt 21,28-32

 

Trình thuật tiếp theo dụ ngôn “nói và làm của hai người con” (Mt 21,28-32) là dụ ngôn “những tá điền sát nhân” (Mt 31,33-44). Kế đến là phần kết (21,45-46) cho cả ba đoạn văn trước đó: Mt 21,23-37; 21,28-32; 21,33-44.

 

Dàn bài dụ ngôn thứ hai ở Mt 21,33-44 cũng giống dàn bài dụ ngôn thứ nhất: “lời nói và việc làm của hai người con”  (21,28-32). Dàn ý dụ ngôn “những tá điền sát nhân” (Mt 31,33-44) gồm bốn bước: (1) Đức Giê-su kể dụ ngôn, (2) Dựa vào dụ ngôn, Đức Giê-su đặt một câu hỏi, (3) Dụ ngôn đã gợi ý để thính giả có câu trả lời đúng, (4) Đức Giê-su dựa vào câu trả lời của họ để tuyên bố lời phán quyết. Sau đây là bốn phần của dụ ngôn “những tá điền sát nhân” (Mt 21,33-44).

 

1) Đức Giê-su kể một dụ ngôn, 21,33-39:

 

[Mt 21,33-39] 33 Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: "Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. 34 Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. 35 Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. 36 Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. 37 Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: "Chúng sẽ nể con ta." 38 Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: "Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!" 39 Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi.

 

2) Đức Giê-su đặt một câu hỏi cho người nghe, 21,40:

 

[Mt 21,40] Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?"

 

3) Thính giả được dẫn đắt để có câu trả lời đúng, 21,41:

 

[Mt 21,41] Họ đáp: "Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông."

 

4) Đức Giê-su dựa vào câu trả lời để kết án họ, 21,42-44:

 

[Mt 21,42-44] 42 Đức Giê-su bảo họ: "Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta. 43 Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. (44 Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt)."

Dụ ngôn về “nói và làm của hai người con” (21,28-32) cũng trình bày qua bốn bước trên trong cùng một bối cảnh tranh luận. Trong cả hai dụ ngôn, Đức Giê-su cũng kể cho cùng một đối tượng: “các thượng tế, các kỳ mục của dân” và “những người Pha-ri-sêu” sẽ được nói đến ở 21,45. Cả hai dụ ngôn đều kết thúc bằng một lời kết án nhằm cảnh tỉnh giới lãnh đạo Do Thái, vì họ không tin và đang tìm cách làm hại Đức Giê-su.

 

Cả hai dụ ngôn đều nói về đề tài “vườn nho” (ampelôn), từ này xuất hiện 5 lần trong hai dụ ngôn (21,28.33.39.40.41). Dụ ngôn thứ nhất là “đi làm vườn nho”, dụ ngôn thứ hai là “tá điền canh tác vườn nho”. Lời phán quyết của Đức Giê-su trong cả hai dụ ngôn đều nói đến Nước Thiên Chúa. Trong dụ ngôn thứ nhất Đức Giê-su nói: “Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (21,31b); trong dụ ngôn thứ hai Đức Giê-su nói: “Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi” (21,43). Những điểm song song trên cho thấy, ý nghĩa của hai dụ ngôn bổ túc và soi sáng cho nhau. Hai dụ ngôn này liên kết chặt chẽ với nhau vì có chung phần kết luận.

 

III) Kết luận ba trình thuật Mt 21,23-27; 21,28-32; 21,33-44

 

Mt 21,45-46 là phần kết luận cho đoạn văn lớn: Mt 21,23-44. Người thuật chuyện kết thúc đoạn văn 21,23-44 như sau: 

 

[Mt 21,45-46] 45 Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ. 46 Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.

 

Hai câu kết luận này (21,45-46) nói đến nhóm nhân vật mới: “Những người Pha-ri-sêu (hoi Pharisaioi)” (21,45). Họ là những người đã nghe “những dụ ngôn (tas parabolas)” Đức Giê-su kể. Từ “dụ ngôn” ở số nhiều: “các dụ ngôn”, nên nhóm nhân vật “những người Pha-ri-sêu” đã nghe cả hai dụ ngôn: 1) “Nói và làm của hai người con” (21,28-32); 2) “Các tá điền sát nhân” (21,33-44).

 

Nhờ nối kết trình thuật “nói và làm của hai người con” (21,28-32) với dụ ngôn “các tá điều sát nhân” (21,33-44) và hai câu kết luận (21,45-46) mà độc giả biết trình thuật “nói và làm của hai người con” (21,28-32) là một “dụ ngôn”. Cho dù từ “dụ ngôn” (parabolê) không xuất hiện trong đoạn văn 21,28-32, nhưng Đức Giê-su mở đầu dụ ngôn “các tá điền sát nhân” như sau: “Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác (allên papabolên): ‘Có gia chủ kia trồng được một vườn nho…’” (21,33). Nói đến “dụ ngôn khác” (allos parabolê) đã hàm ẩn trình thuật kể trước đó (21,28-32) là một “dụ ngôn”. Hơn nữa, câu kết luận trình thuật 21,23-44 viết: “Nghe những dụ ngôn (tas parabolas) Người kể, các thượng tế và người Pha-ri-sêu hiểu là Người nói về họ” (21,45). Từ “dụ ngôn” trong câu này ở số nhiều, ám chỉ hai câu chuyện Đức Giê-su vừa kể. Như thế, trình thuật “nói và làm của hai người con” (21,28-32) là một trong hai dụ ngôn.   

 

Lời kết luận ở Mt 21,45-46 cho phép phân biệt đoạn văn 21,23-46 với dụ ngôn tiếp theo ở Mt 22,1-14 (dụ ngôn tiệc cưới). Dụ ngôn này nối kết với phần trước khi mở đầu như sau: “1 Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: ‘2 Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình…’” (Mt 22,1-2). Tuy nhiên, giáo huấn của dụ ngôn tiệc cưới rộng hơn và có cấu trúc khác với hai dụ ngôn trong đoạn văn 21,23-46. Những phân tích về bối cảnh đoạn văn 21,23-46 như trên cho phép thiết lập cấu trúc của đoạn văn này.

 

IV) Cấu trúc đoạn văn Mt 21,23-46

 

Phân tích bối cảnh văn chương như trên cho thấy dụ ngôn “nói và làm của hai người con” (Mt 21,28-32) liên kết chặt chẽ với các đoạn văn trước và sau nó làm thành một khối thống nhất: 21,23-46. Đoạn văn này được cấu trúc thành ba phần (I, II, III), trong đó hai dụ ngôn thuộc phần II.

 

 

Bảng trên cho thấy đoạn văn 21,23-46 được cấu trúc chặt chẽ qua ba phần lớn. Phần I, mở đầu cuộc tranh luận cho biết hoàn cảnh trình thuật: Đức Giê-su giảng dạy trong Đền Thờ và các thượng tế và kỳ mục đến hỏi Đức Giê-su về quyền của Người (21,23). Lời chất vấn của giới lãnh đạo Do Thái mang sắc thái chất vấn và tranh luận, Đức Giê-su trả lời cũng bằng một lời thẩm vấn có điều kiện. Người chỉ trả lời nếu những kẻ chất vấn giải đáp được câu hỏi Người đặt ra. Bầu khí tranh luận được nhấn mạnh ngay từ đầu trình thuật. Các thượng tế và kỳ mục đã thua, họ không dám trả lời, vì cách trả lời nào cũng không có lợi cho họ (21,25b-26). Trình thuật 21,23-27 kết thúc mà không có câu trả lời. Các thượng tế và kỳ mục, cũng như độc giả, không biết quyền của Đức Giê-su  đến từ đâu. Như thế, phần I (21,23-27) mới chỉ là phần mở đầu đề tài tranh luận, độc giả cần đọc tiếp phần II để biết tranh luận diễn tiến thế nào và Đức Giê-su có nói hay làm gì để bày tỏ quyền của Người hay không.

 

Phần II gồm hai dụ ngôn, tiếp nối phần tranh luận và qua hai dụ ngôn này, Đức Giê-su bày tỏ quyền và thi hành quyền của Người. Hai dụ ngôn được trình bày song song với nhau cùng một dàn bài (a, b, c, d, a’, b’, c’, d’). Mỗi dụ ngôn đầy đủ ý nghĩa tự nó, nhưng khi đặt song song hai dụ ngôn, độc giả thấy sự tiến triển của đề tài tranh luận. Hai dụ ngôn này, bổ túc và soi sáng cho nhau vì đều nói về hậu quả của những gì mà giới lãnh đạo Do Thái đang làm. Phần III là phần kết luận cho cả đoạn văn dài 21,23-46.

 

Phần III kết luận cho cả ba đoạn văn: 21,23-27; 21,28-32; 21,33-44. Phần này nói đến hai dụ ngôn vừa kể, đồng thời cho độc giả biết ý nghĩa của hai dụ ngôn: Đức Giê-su ám chỉ đến các thượng tế, các kỳ mục và những người Pha-ri-sêu, tức là giới lãnh đạo Do Thái thời đó. Họ tìm cách bắt và giết Đức Giê-su, như trường hợp “con trai của gia chủ” (của) trong dụ ngôn “các tá điền sát nhân”. Vì thế, Nước Thiên Chúa sẽ bị lấy đi khỏi họ. Tương phản mạnh mẽ trong bản văn là bên ngoài xem ra họ vâng nghe và phụng thờ Thiên Chúa, nhưng thực ra họ đã không thực thi ý muốn của Thiên Chúa. Những người thu thế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước những người lãnh đạo tinh thần của dân!

  

Những phân tích trên cho thấy độc giả có thể thưởng thức được kiểu hành văn tương phản mạnh mẽ và độc đáo nếu đặt dụ ngôn “nói và làm của hai người con” (21,28-32) trong mạch văn dài hơn: Mt 21,23-46. Nhờ đặt 21,28-32 vào bối cảnh văn chương, độc giả mới biết nhân vật “các ông” trong dụ ngôn 21,28-32 là “các thượng tế, các kỳ mục” và “những người Pha-ri-sêu” (21,45). Trong các sách Tin Mừng, ba nhóm “các thượng tế”, “các kỳ mục” và “những người Pha-ri-sêu” phân biệt với nhau, nhưng có đặc điểm chung là chống lại Đức Giê-su.

 

Kết luận

 

Những phân tích về bối cảnh văn chương một đoạn văn như trên cho thấy tầm quan trọng của bối cảnh để hiểu ý nghĩa một đoạn văn. Nếu chỉ đọc đoạn văn Mt 21,28-32, độc giả sẽ không biết dụ ngôn được kể ra trong bối cảnh nào và Đức Giê-su kể dụ ngôn cho ai và nhằm đến ai. Khi đặt Mt 21,28-32 trong bối cảnh chung của đoạn văn lớn hơn (Mt 21,23-46), độc giả sẽ cảm nhận được sức mạnh của đoạn văn Mt 21,28-32 và biết các chi tiết giúp hiểu thần học của đoạn văn:

 

-    Biết lý do Đức Giê-su kể dụ ngôn “nói và làm của hai người con” (Mt 21,38-32). Trong đoạn văn trước, “các thượng tế và kỳ mục” chất vấn về quyền hành của Đức Giê-su (21,23) nên Người trả lời cho họ bằng cách thực thi quyền phán quyết trong hai dụ ngôn tiếp theo.

 

-    Biết Đức Giê-su nói dụ ngôn với ai. Những người nghe Đức Giê-su là “các thượng tế, các kỳ mục” (21,23) và “những người Pha-ri-sêu” (21,45). Họ là những kẻ tranh luận và chống đối Đức Giê-su. Cuối mỗi dụ ngôn Đức Giê-su tuyên bố tình trạng hiện tại của họ.

 

-    Biết dụ ngôn đặt trong bầu khí tranh luận và biết tranh luận kết thúc như thế nào. Những kẻ chống đối tìm bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng (21,46).

 

-   Biết trình thuật “nói và làm của hai người con” (Mt 21,38-32) là một dụ ngôn, và biết dụ ngôn thứ nhất nối kết chặt chẽ với dụ ngôn thứ hai (những tá điền sát nhân).

 

-    Biết diễn tiến và nối kết giữa các đề tài liên quan đến Gio-an Tẩy Giả: “hối hận”, “sám hối” và “tin” vào lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả. Chỉ những ai “sám hối” và “tin” mới biết quyền hành của Đức Giê-su đến từ đâu và Đấng nào đã ban quyền cho Người.

 

Sau khi tìm hiểu bối cảnh văn chương của đoạn văn 21,28-32, độc giả có thể dựa vào đó để tìm hiểu ý nghĩa của đoạn văn, chẳng hạn tìm hiểu các đề tài: Tương quan giữa “nói” và “làm”. Hiểu về quyền hành của Đức Giê-su trong tương quan với “sám hối” và “tin”. Tương phản giữa “những người thu thuế và những cô gái điếm” và “giới lãnh đạo Do Thái”… Trình thuật Mt 21,28-32 mở đầu bằng động từ “hối hận” (metamelomai) và kết thúc bằng phủ định động từ này “không hối hận” (oude metamelomai) trong liên hệ với lời giảng của Gio-an Tẩy Giả (21,32). Chi tiết này buộc độc giả phải trở về đầu Tin Mừng Mát-thêu để biết Gio-an Tẩy Giả rao giảng điều gì, mời gọi người nghe làm gì. Đây cũng là cách thức đặt nhân vật Gio-an Tẩy Giả vào trong bối cảnh văn chương của Tin Mừng Mát-thêu, nhưng ở cấp độ rộng lớn hơn (Mt 3,1-12). Có thể xem thêm trình bày về bối cảnh, cấu trúc và những yếu tố khác của phương pháp đọc Kinh Thánh, như tương quan “tác giả - độc giả”, các loại nhân vật, yếu tố không gian, thời gian v.v… trong tập sách: Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư, Nxb. Phương Đông, 2010, 228 trang.

 

Để tránh nguy cơ hiểu lệnh lạc bản văn, hay đưa ra những kết luận mà bản văn không nói tới, độc giả cần chú trọng đến bối cảnh văn chương và cấu trúc đoạn văn trên nhiều cấp độ bản văn dài ngắn khác nhau. Trong phương pháp đọc Kinh Thánh, “bối cảnh” và “cấu trúc” góp phần quan trọng vào việc hiểu ý nghĩa của đoạn văn. Nhờ “bối cảnh” và “cấu trúc” đoạn văn, độc giả sẽ khám phá ra những nét thần học độc đáo của đoạn văn, nhận ra sức mạnh của bản văn và biết đoạn văn góp phần thế nào để xây dựng thần học chung của sách Tin Mừng. Tôn trọng bản văn và quan sát kỹ bản văn sẽ mở ra cho độc giả một kho tàng vô tận trong việc tìm hiểu, suy niệm và sống Lời mặc khải./.

 

Ngày 18 tháng 09 năm 2011.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/09/phuong-phap-oc-kinh-thanh-boi-canh-va.html

 

 

 

 

Phương pháp đọc Kinh Thánh

 

   b * Tìm hiểu “cấu trúc”, “nhân vật”, “thời gian” và “không gian” 

 

 “Cấu trúc”, “nhân vật”, “thời gian” và “không gian” trong Ga 13,1-32: Giờ đã đến, Giờ yêu thương đến cùng, rửa chân và Giu-đa nộp Thầy.


Ngày 18 tháng 03 năm 2012.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/03/tim-hieu-cau-truc-nhan-vat-thoi-gian-va.html

 

 

Trong phương pháp “phân tích cấu trúc” và “phân tích thuật chuyện”, (Xem phan duoi) việc quan sát “cấu trúc” và các yếu tố “nhân vật”, “thời gian”, “không gian”, giúp hiểu ý nghĩa câu chuyện. Bài viết này sẽ trình bày “cấu trúc” một đoạn văn cụ thể (xem duoi) và quan sát các yếu tố “nhân vật”, “thời gian” và “không gian” trong Ga 13,1-32. Đây là đoạn văn mở đầu các diễn từ từ biệt (Ga 13–17) của Đức Giê-su dành cho các môn đệ, trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó – Phục Sinh (Ga 18–21).

 

Đoạn văn Ga 13,1-32 nói về Giờ đã đến, đó là giờ Đức Giê-su yêu thương những kẻ thuộc về Người cho đến cùng. Đề tài yêu thương này được thuật lại trong câu chuyện với ba ý chính: (1) Đức Giê-su rửa chân cho các môn đệ. (2) Phê-rô và các môn đệ không hiểu về những gì đang xảy ra. Đặc biệt đoạn văn Ga 13,1-32 dành phần quan trọng để nói về (3) việc Giu-đa nộp Thầy. Ba đề tài chính của đoạn văn này liên kết với nhau như thế nào? Bài viết này không nhằm phân tích chi tiết đoạn văn Ga 13,1-32 mà chỉ bàn đến các yếu tố chuẩn bị cho việc tìm hiểu ý nghĩa đoạn văn qua năm mục: 1) Bản văn Ga 13,1-32, 2) Cấu trúc, 3) Nhân vật, 4) Thời gian và 5) Không gian trong đoạn văn Ga 13,1-32.

 

1. Bản văn Ga 13,1-32.

Bản dịch trong Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ, Hy Lạp – Việt.

 

13,1Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết rằng giờ của Người đã đến để ra khỏi thế gian này mà về với Cha. Đã yêu mến những kẻ thuộc về mình ở trong thế gian, Người đã yêu mến họ đến cùng.

 

2Trong bữa ăn, quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Người.

 

3Người biết rằng: Cha đã trao ban mọi sự trong tay Người và Người bởi Thiên Chúa mà đến và Người đi về cùng Thiên Chúa, 4Người chỗi dậy khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài và lấy khăn thắt lưng mình. 5Rồi Người đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân các môn đệ và lấy khăn Người thắt lưng mà lau. 6Vậy, Người đến chỗ Si-môn Phê-rô, ông ấy nói với Người: “Thưa Thầy, Thầy rửa chân cho con sao?”7Đức Giê-su trả lời và nói với ông ấy: “Điều Thầy làm anh chưa biết bây giờ nhưng sau này anh sẽ biết.” 8Phê-rô nói với Người: “Không đời nào Thầy lại rửa chân cho con.” Đức Giê-su trả lời ông ấy: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng có phần với Thầy.”9Si-môn Phê-rô nói với Người: “Thưa Thầy, không chỉ rửa chân con, nhưng cả tay và đầu.” 10Đức Giê-su nói với ông ấy: “Ai đã tắm rồi, thì không cần nữa – ngoại trừ rửa chân –, toàn thân người ấy đã sạch. Phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả.”11Người biết kẻ nộp Người, vì điều này Người nói: “Không phải tất cả anh em đều sạch.”

 

12Khi rửa chân cho họ xong, Người mặc áo vào, trở về bàn ăn, Người nói với họ: “Anh em có biết rõ việc Thầy đã làm cho anh em không? 13Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’ và là ‘Chúa’, anh em nói đúng, vì Thầy là thế. 14Vậy nếu chính Thầy rửa chân cho anh em, Thầy là‘Chúa’, là ‘Thầy’, thì chính anh em cũng phải rửa chân cho nhau.15Thầy đã nêu gương cho anh em, để như Thầy đã làm cho anh em, chính anh em cũng làm. 16A-men, a-men, Thầy nói cho anh em: Tôi tớ không lớn hơn chủ của nó, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai phái kẻ ấy. 17Nếu anh em đã biết những điều này, anh em có phúc, nếu anh em thực hành chúng.

 

18Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng để Kinh Thánh được nên trọn: ‘Kẻ đã cùng con ăn bánh lại giơ gót đạp con.’ 19Thầy nói với anh em từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin rằng: Thầy Là. 20A-men, a-men, Thầy nói cho anh em: Ai đón nhận người Thầy sai phái là đón nhận Thầy, ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy.” 21Nói những điều đó xong, Đức Giê-su xao xuyến trong tâm thần. Người làm chứng và nói: “A-men, a-men, Thầy nói cho anh em: Một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” 22Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai. 23Có một người trong các môn đệ của Người đang dùng bữa, tựa vào lòng Đức Giê-su, đó là người Đức Giê-su yêu mến. 24Vậy Si-môn Phê-rô làm hiệu cho ông ấy hỏi xem Thầy nói về ai. 25Ông này nghiêng mình vào ngực Đức Giê-su nói với Người: “Thưa Thầy, ai vậy?” 26Đức Giê-su trả lời: “Kẻ đó là người mà chính Thầy chấm miếng bánh và trao cho.” Rồi Người chấm miếng bánh [cầm lấy và] trao cho Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt.

 

27Và khi nhận miếng bánh, Xa-tan liền nhập vào ông ấy. Đức Giê-su nói với ông ấy: “Anh làm gì thì làm mau đi.” 28[Nhưng] điều này, không ai trong những người đang dùng bữa biết tại sao Người nói với ông ấy như thế. 29Vì Giu-đa giữ túi tiền, có vài người nghĩ là Đức Giê-su nói với ông ấy: “Anh hãy mua những món cần dùng trong dịp lễ”, hoặc bố thí cho người nghèo. 30Sau khi nhận lấy miếng bánh, ông ấy đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối.

 

31Vậy khi ông ấy đi rồi, Đức Giê-su nói: “Giờ đây Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người. 32[Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người,] Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người nơi chính Mình, và ngay lập tức Thiên Chúa sẽ tôn vinh Người.

 

2. Cấu trúc Ga 13,1-32

 

Đoạn Tin Mừng Ga 13,1-32 có thể được cấu trúc theo dạng đồng tâm A, B, C, C’, B’, A’ như sau:

 

 

Trong đoạn văn 13,1-32, có A // A’, vì câu dẫn nhập: “Giờ đã đến” (13,1) song song với câu kết: “Giờ (lúc) tôn vinh” (13,31-32). Yếu tố B (13,2) giới thiệu khung cảnh trình thuật: “Trong bữa ăn” cùng với ý tưởng “quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Người”. Việc Giu-đa nộp Đức Giê-su sẽ được trình bày chi tiết trong tiểu đoạn song song: B’ (13,27-30). Như thế, B: “Quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa...” // B’: “Xa-tan liền nhập vào ông ấy”. Tiểu đoạn C trình bày hành động rửa chân và ý nghĩa của hành động này, song song với tiểu đoạn C’ là thông báo và thắc mắc về kẻ sẽ nộp Đức Giê-su. Các ý tưởng song song giữa C và C’ liên quan đến đề tài “không biết” của các nhân vật: Phê-rô, các môn đệ và Giu-đa. Xem phân tích “Cấu trúc Ga 13,1-32” trong Khủng hoảng và giải pháp cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư, tr. 48-60).

 

3. Nhân vật

 

Đoạn văn Ga 13,1-32 trình bày các nhân vật rất độc đáo. Các nhân vật nói đến trong đoạn văn này là Chúa Cha, Thiên Chúa, Đức Giê-su, Con Người, quỷ, Xa-tan, các môn đệ, Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, Si-môn Phê-rô và môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Các nhân vật này có thể chia thành ba nhóm:

1) Nhóm thứ nhất gồm có Chúa Cha, Thiên Chúa, Đức Giê-su, Con Người (chỉ Đức Giê-su). Trong đó Đức Giê-su là nhân vật xuất hiện trong trình thuật. Thiên Chúa là nhân vật được Đức Giê-su nói đến.

2) Nhóm thứ hai là thế lực chống đối Đức Giê-su, gồm có Quỷ, Xa-tan.

3) Nhóm thứ ba được gọi là “Những kẻ thuộc về Đức Giê-su” (13,1) gồm có: Các môn đệ, Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt, Si-môn Phê-rô và môn đệ Đức Giê-su yêu mến.

 

Khi kể lại những gì liên quan đến nhóm nhân vật thứ nhất trong bản văn, người thuật chuyện cho độc giả biết hai mối tương quan:

1) Tương quan giữa Đức Giê-su và Cha của Người trong bối cảnh “Giờ đã đến”.

2) Tương quan giữa Đức Giê-su và “những kẻ thuộc về Người” khi “Giờ đã đến”.

 

Đoạn văn 13,1-32 mở đầu mặc khải về Giờ của Đức Giê-su, đây là Giờ Người bị trao nộp, Giờ Người sẽ chết trên thập giá. Đó cũng chính là Giờ Đức Giê-su “ra khỏi thế gian mà về với Cha” (13,1), Giờ Thiên Chúa và Đức Giê-su được tôn vinh (13,31-32). Đức Giê-su biết rõ điều đó vì người thuật chuyện kể: “Người (Đức Giê-su) biết rằng: Cha đã trao ban mọi sự trong tay Người và Người bởi Thiên Chúa mà đến và Người đi về cùng Thiên Chúa...” (13,3). “Giờ đã đến” cũng là Giờ Đức Giê-su bày tỏ tình yêu của Người dành cho những kẻ thuộc về mình. Đó là “tình yêu đến cùng về thời gian” (yêu cho đến chết) và “tình yêu đến cùng về mức độ” (một tình yêu cao cả). 

 

Nhóm nhân vật thứ hai là quỷ và Xa-tan, xuất hiện ở đầu đoạn văn (13,2: Quỷ) và ở gần cuối đoạn văn (13,27: Xa-tan). Trong cả hai lần xuất hiện trên đây, nhân vật quỷ và Xa-tan đều liên hệ đến nhân vật Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt. Thực vậy, mở đầu trình thuật, người thuật chuyện cho độc giả biết: “Quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa ý định nộp Người” (13,2). Kết thúc trình thuật, người thuật chuyện kể: “Xa-tan liền nhập vào ông ấy (Giu-đa)” (13,27). Tương quan giữa quỷ, Xa-tan với Giu-đa cho thấy nguyên nhân sâu xa trong hành động Giu-đa nộp Thầy là do quỷ xúi dục và do Xa-tan hành động, đây mới thực sự là kẻ chống đối Đức Giê-su. Còn Giu-đa, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, ông đã để cho mình thuộc về quỷ, và khi quyết định nộp Đức Giê-su, Giu-đa đang làm công việc của quỷ.

 

Nhóm nhân vật thứ ba là “những kẻ thuộc về Đức Giê-su”, gồm có các môn đệ, Si-môn Phê-rô, môn đệ Đức Giê-su yêu mến và kể cả Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt bởi vì lời mở đầu ở 13,1: “Đãyêu mến những kẻ thuộc về mình ở trong thế gian, Người (Đức Giê-su) đã yêu mến họ đến cùng” được thuật lại khi có mặt Giu-đa trong nhóm các môn đệ. Hơn nữa nhân vật Giu-đa còn được nói rõ: “Một người trong Nhóm Mười Hai” (6,71). Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (13,21). Như thế, Giu-đa là một môn đệ của Đức Giê-su, đến cuối đoạn văn ông mới đi ra trong đêm tối (13,30), tách rời khỏi nhóm các môn đệ.   

 

“Những kẻ thuộc về Đức Giê-su” là những kẻ được Người yêu thương cho đến cùng, nhưng nhóm này đã làm gì và ứng xử như thế nào? Đề tài nổi bật liên quan đến nhóm các môn đệ là đề tài: “không hiểu” và “không biết”. Phê-rô đã không hiểu hành động Đức Giê-su làm và không hiểu lời Đức Giê-su nói. Phê-rô không để Đức Giê-su rửa chân là không hiểu ý nghĩa của việc Đức Giê-su làm (13,6-8a). Khi Đức Giê-su nói với Phê-rô: “Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng có phần với Thầy” (13,8b), Phê-rô đã không hiểu Đức Giê-su khi trả lời: “Thưa Thầy, không chỉ rửachân con, nhưng cả tay và đầu” (13,9). Phê-rô cùng với các môn đệ khác, không ai biết kẻ sẽ nộp Đức Giê-su là ai. Khi Đức Giê-su nói: “Một người trong anh em sẽ nộp Thầy” (13,21) thì “Các môn đệ nhìn nhau, phân vân không biết Người nói về ai” (13,22). Đến khi Đức Giê-su “chấm miếng bánh [cầm lấy và] trao cho Giu-đa con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt” (13,26) thì “không ai trong những người đang dùng bữa biết” (13,28) tại sao Đức Giê-su lại nói với Giu-đa: “Anh làm gì thì làm mau đi” (13,27b). Các môn đệ đã đi từ không biết này đến không biết khác. Trước hết, các môn đệ không biết ai là kẻ sẽ nộp Đức Giê-su, khi đã biết thì lại rơi vào tình trạng không biết Giu-đa đi ra để làm gì.

 

Các môn đệ “không biết”, “không hiểu” về những sự kiện đang xảy ra. Còn nhân vật Giu-đa, ông ấy không nói lời nào trong trình thuật, nhân vật này không bày tỏ cảm xúc, không phân vân, không thắc mắc. Giu-đa hành động như thể đã được “cài đặt” trước. Thực vậy, Giu-đa đã để cho quỷ gieo vào lòng mình ý định nộp Đức Giê-su (13,2) và đã để Xa-tan nhập vào mình (13,27). Nhân vật Giu-đa đã thuộc về quỷ và đang làm công việc của quỷ. Cách trình bày nhân vật Giu-đa trong bản văn như trên đã làm cho nhân vật này trở thành công cụ của quỷ.

 

Tuy vậy, khi đặt nhân vật Giu-đa vào bối cảnh đoạn văn, độc giả nhận ra rằng: Cũng như Phê-rô và các môn đệ khác, khi quyết định nộp Thầy, Giu-đa đã thực sự không biết Đức Giê-su là ai. Nhóm các môn đệ đang ở trong tình trạng khủng hoảng vì Giu-đa, một người trong Nhóm Mười Hai, đi nộp Thầy, còn Phê-rô thì sẽ chối Thầy (13,38), các môn đệ khác cũng chẳng hiểu những gì Đức Giê-su làm. Tất cả họ đều chưa thực sự biết Đức Giê-su là ai.

 

Thực ra, căn tính của Đức Giê-su chỉ hoàn toàn được tỏ lộ sau biến cố Thương Khó – Phục Sinh. Chỉ sau khi Đức Giê-su về với Cha và Đấng Pa-rác-lê đến với các môn đệ thì họ mới thực sự biết Đức Giê-su là ai, thực sự tin vào Người và có thể đi theo Người như Phê-rô là người đã hy sinh mạng sống mình để tôn vinh Thiên Chúa (21,19).

 

Đề tài các môn đệ “không hiểu”, “không biết” tương phản mạnh mẽ với đề tài “biết” của Đức Giê-su. Người biết Giờ của Người đã đến (13,1), Người biết Cha đã trao mọi sự trong tay Người... (13,3). Đức Giê-su biết ai là kẻ sẽ nộp Người (13,26). Đức Giê-su biết Giờ sắp xảy đến là Giờ Người được tôn vinh và là Giờ Người tôn vinh Thiên Chúa (13,31-32). Sự tương phản giữa “biết” (Đức Giê-su) và “không biết” (các môn đệ kể cả Giu-đa) làm cho Đức Giê-su trở thành Đấng mặc khải cho các môn đệ, Đức Giê-su thực sự là “Đấng làm cho biết”.

 

Trong bối cảnh các môn đệ đi từ không biết này (không biết ai sẽ nộp Đức Giê-su) đến không biết khác (không biết Giu-đa đi ra để làm gì), nhân vật “người môn đệ Đức Giê-su yêu mến” (13,23-25) xuất hiện trong bản văn. Người thuật chuyện cho biết vị trí đặc biệt của người môn đệ này trong bữa ăn: “tựa vào lòng Đức Giê-su” (13,23). Câu hỏi của người môn đệ này (13,25) đã được Đức Giê-su trả lời (13,26). Những chi tiết trên cho thấy người môn đệ này thân tình với Đức Giê-su và hiểu Đức Giê-su hơn các môn đệ khác, đúng như tên gọi của môn đệ này: “Người Đức Giê-su yêu mến”. Những lần xuất hiện tiếp theo trong Tin Mừng Gio-an làm rõ phẩm chất của người môn đệ này trong tương quan với Đức Giê-su về nhiều phương diện: về “lòng mến” (13,23), về “lòng tin” (20,8), về “lòng trung tín” (19,26-27), về “sự nhận biết Đức Giê-su” (21,7) và đặc biệt là về “lời chứng” có uy thế của người môn đệ này (19,35; 21,24).

 

Các tình tiết liên quan đến các nhân vật trong đoạn văn Ga 13,1-32 phong phú và đa dạng. Cách trình bày các nhân vật như phân tích trên làm cho độc giả nhận ra mình có thể cũng “không biết”, “chưa biết đủ” về Đức Giê-su. Vì thế, độc giả được bản văn mời gọi chú ý lắng nghe Đức Giê-su để “biết” Người thực sự là ai, “biết” ý nghĩa của những biến cố đang xảy ra trong câu chuyện và trong cuộc đời độc giả. Qua đó, độc giả nỗ lực xây dựng tương quan tình yêu với Đức Giê-su qua khuôn mẫu người môn đệ Đức Giê-su yêu mến. Những gì xảy ra liên quan đến các nhân vật, được đặt trong bối cảnh thời gian và không gian sẽ được phân tích vắn tắt sau đây. 

 

4. Thời gian

 

Yếu tố thời gian trong đoạn văn Ga 13,1-32 có nhiều gợi ý thần học. Trước hết Ga 13 mở đầu bằng hai từ: “Lễ Vượt Qua” và “Giờ”. Người thuật chuyện kể: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết rằng giờ của Người đã đến” (13,1a). Bản văn nối kết Lễ Vượt Qua với Giờ của Đức Giê-su. Theo Tin Mừng Gio-an, Đức Giê-su chết trên thập giá vào ngày chuẩn bị lễ Vượt Qua (18,28; 19,31). Yếu tố thời gian ở Ga 13,1-32, được tính bằng “giờ” và “Giờ của Đức Giê-su” được định nghĩa rõ ràng. Đó là Giờ Đức Giê-su đi về với Cha (13,b), Giờ Người yêu thương những kẻ thuộc về mình cho đến cùng (13,1c), Giờ Đức Giê-su tôn vinh Thiên Chúa và là Giờ Thiên Chúa tôn vinh Đức Giê-su (13,31-32).

 

Đồng thời, Ga 13,1-32 cũng cho biết đó là giờ, là lúc, là thời điểm Giu-đa quyết định nộp Đức Giê-su, đó là giờ Giu-đa tách rời khỏi nhóm các môn đệ, để ra đi làm công việc của Xa-tan (13,27). Bản văn cho biết thời điểm lúc Giu-đa đi ra: “Lúc đó, trời đã tối” (13,30b). Giu-đa đi vào bóng tối, gợi đến hành động đen tối và giờ của thế lực bóng tối. Cụ thể là giờ hành động của quỷ và Xa-tan nơi nhân vật Giu-đa.

 

Yếu tố thời gian tương phản nhau trong Ga 13,1-32 làm lộ ra thần học của bản văn. Đó là thời gian đan xen giữa “sáng” (giờ yêu thương, giờ tôn vinh) và “tối” (giờ của thế lực bóng tối, giờ Đức Giê-su bị trao nộp). Trên bình diện lịch sử, “Giờ đã đến” là giờ Đức Giê-su bước vào cuộc Thương Khó, giờ Người sẽ chết trên thập giá; nhưng trên bình diện mặc khải, “Giờ đã đến” là Giờ Đức Giê-su về với Cha, Giờ Người được tôn vinh, Giờ Người bày tỏ tình yêu của Người dành cho các môn đệ. Như thế, theo thần học Tin Mừng Gio-an, Giờ chết của Đức Giê-su trên thập giá cũng là Giờ Người chiến thắng thế gian (16,33), Giờ thủ lãnh thế gian bị xét xử (16,11). Bản văn Ga 13,1-32 đã chuyển tải được những ý nghĩa mặc khải quan trọng này nhờ yếu tố thời gian và các yếu tố khác trong trình thuật.

 

5. Không gian

 

Trình thuật Gio-an 13,1-32 được xây dựng trong một không gian rất đặc biệt với nhiều nét tương phản. Trước hết, không gian của trình thuật là một bữa ăn: “Trong bữa ăn,...” (13,2a), nhưng bản văn không nói nhiều về bữa ăn mà nói về những gì xảy ra xung quanh bữa ăn ấy. Bữa ăn tự nó là nơi chia sẻ, nơi gặp gỡ, nơi bày tỏ tâm tình của những người có tương quan thân thiết với nhau. Cụ thể trong bản văn Ga 13,1-32, đây là bữa ăn cuối cùng giữa Đức Giê-su và các môn đệ của Người. Điều tương phản trong khung cảnh bữa ăn ấy là Phê-rô không hiểu Đức Giê-su. Cũng trong khung cảnh bữa ăn mà Đức Giê-su nói về kẻ sẽ nộp Người và chỉ ra kẻ ấy là ai. Sự tương phản ấy làm cho bữa ăn trong Ga 13,1-32 đan xen giữa “ánh sáng” (không gian bày tỏ tình yêu) và “bóng tối” (không gian làm lộ ra ý định đen tối: nộp Thầy).

 

Không gian như trên làm cho khung cảnh bữa ăn chia làm hai phần: “Bữa ăn có Giu-đa” (13,1-30) và tiếp theo là “bữa ăn không có Giu-đa” (kể từ 13,32). Khung cảnh bữa ăn này tiếp diễn cho đến cuối chương 14 (14,31). Tuy nhiên, “có Giu-đa” hay “không có Giu-đa”, nhóm các môn đệ vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng, xao xuyến và sợ hãi (14,1.27). Sau khi Giu-đa rời khỏi nhóm, Đức Giê-su báo trước Phê-rô sẽ chối Người ba lần (13,36). Phân tích yếu tố không gian giúp độc giả đọc ra ý nghĩa của trình thuật và liên hệ với hoàn cảnh độc giả đang sống.

 

Kết luận

 

Các bước trong việc chuẩn bị phân tích một bản văn là tìm hiểu cấu trúc và quan sát các yếu tố nhân vật, thời gian và không gian trong bản văn. Những quan sát trên đã định hướng phần nào ý nghĩa của bản văn, giúp hiểu câu chuyện và rút ra được những ý tưởng áp dụng vào hoàn cảnh sống hiện tại. Còn một số bước khác cần thực hiện như tìm hiểu “phân đoạn đoạn văn” và “bối cảnh văn chương của đoạn văn”. Các bước này đã trình bày phần nào trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc, mong rằng sẽ có dịp trình bày tất cả các bước cần làm khi tìm hiểu một đoạn văn, với hy vọng mọi người có thể áp dụng phương pháp và tìm hiểu những đoạn văn khác trong Kinh Thánh./.

 

Ba phương pháp phân tích, ba cách đặt câu hỏi (ví dụ: Mc 1,29-31)

 

Có nhiều phương pháp để tìm hiểu một đoạn văn Kinh Thánh, trong đó ba cách tiếp cận bản văn phổ biến hiện nay:

1) Phân tích phê bình lịch sử (l’analyse historico-critique). 

2) Phân tích cấu trúc (l’analyse structurale).

3) Phân tích thuật chuyện (l’analyse narrative).

Xem trình bày sơ lược về ba phương pháp này ở mục: “PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH” trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư.

 

Mỗi phương pháp phân tích khai thác những khía cạnh khác nhau của bản văn. Phần sau đây sẽ trình bày tóm tắt mục đích và sự khác nhau của mỗi lối tiếp cận bản văn. Mỗi phương pháp đặt ra cho bản văn những câu hỏi khác nhau, đoạn văn ngắn dùng làm ví dụ là Mc 1,29-31. (Xem D. MARGUERAT; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, Initiation à l’analyse narrative, Paris – Genève, Le Cerf – Labor et Fides, 2004 (3e édition), p. 9-11). Trước khi trình bày sơ lược ba phương pháp và áp dụng vào một đoạn văn cụ thể, cần giải thích vắn tắt về khái niệm “tác giả thực sự” và “tác giả tiềm ẩn”.

 

I. “Tác giả thực sự” và “tác giả tiềm ẩn”  

 

Ngày nay, người ta thường phân biệt hai loại tác giả: “tác giả thực sự” (auteur réel) và “tác giả tiềm ẩn” (auteur implicite, potentiel, virtuel).

 

“Tác giả thực sự” (auteur réel) có thể là cá nhân hay tập thể. Đó là nhân vật lịch sử đã viết ra bản văn. Việc tìm hiểu “tác giả thực sự” (nhân vật lịch sử) thuộc lãnh vực nghiên cứu sử học. Khi người đọc (độc giả qua mọi thời đại) đi tìm ý nghĩa bản văn, thì “tác giả thực sự” vượt ra ngoài sự nắm bắt của người đọc, bởi vì độc giả chỉ có trong tay bản văn mà thôi. Để tránh đi vào lãnh vực lịch sử (rất phức tạp và thường tranh luận), ngày nay người ta chú trọng đến: “tác giả tiềm ẩn”.

 

 “Tác giả tiềm ẩn” (auteur implicite) là tác giả được xây dựng lên từ bản văn, nghĩa là khi đọc bản văn, người đọc có thể xây dựng từ bản văn một hình ảnh về tác giả, nhờ những chi tiết trong bản văn. Tác giả này gọi là “tác giả tiềm ẩn”. Người đọc có thể nhận ra những đặc tính riêng của “tác giả tiềm ẩn” qua kiểu hành văn, qua những hình ảnh và cách dùng từ ngữ trong bản văn. “Tác giả tiềm ẩn” thể hiện phong cách của mình qua cách hành văn, qua cách trình bày và sắp xếp câu chuyện.

 

Vì những đặc tính của “tác giả tiềm ẩn” được rút ra từ bản văn, nên việc phân biệt giữa “tác giả tiềm ẩn” và “tác giả thực sự” (nhân vật lịch sử) là quan trọng khi tìm hiểu ý nghĩa bản văn. Sự phân biệt này giúp người đọc ý thức giới hạn của mình khi nói đến “tác giả thực sự”. Nếu không phải là nhà nghiên cứu lịch sử, người đọc chỉ có thể nói đến “tác giả tiềm ẩn” (với những đặc điểm trong bản văn), nghĩa là độc giả không đủ thẩm quyền nói về “tác giả thực sự”. Thông thường, mục đích của độc giả không phải là nghiên cứu lịch sử mà là tìm hiểu ý nghĩa đoạn văn mình đang đọc.

 

Có thể nói khái quát rằng: “tác giả thực sự” là đối tượng tìm hiểu của phương pháp phê bình lịch sử. Ngược lại, “phân tích cấu trúc” và “phân tích thuật chuyện” không quan tâm nhiều đến “tác giả thực sự” mà chú trọng đến “tác giả tiềm ẩn”, bởi vì mục đích của hai lối tiếp cận này là tìm hiểu ý nghĩa bản văn, bằng cách dựa vào chính nội dung câu chuyện được thuật lại.

 

II. Bản văn Mc 1,29-31:

Bản dịch lấy trong: Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt1,29Ra khỏi hội đường, lập tức Người (Đức Giê-su) đến nhà Si-môn và An-rê, cùng với Gia-cô-bê và Gio-an. 30Mẹ vợ của Si-môn nằm liệt vì cảm sốt, tức khắc họ nói với Người về bà. 31Đến gần, Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt đã rời khỏi bà và bà phục vụ họ.

 

 

III. Ba phương pháp, ba cách đặt câu hỏi

 

Phần sau sẽ trình bày mối bận tâm của ba phương pháp: “Phê bình lịch sử”, “Phân tích cấu trúc” và “Phân tích thuật chuyện”. Khi áp dụng vào một đoạn văn cụ thể, chẳng hạn Mc 1,29-31, các phương pháp khác nhau sẽ đặt ra những câu hỏi khác nhau cho bản văn.

 

     1. Phê bình lịch sử (historico-critique)

 

Phương pháp phê bình lịch sử quan tâm đến thế giới đằng sau bản văn (le monde historique derrière le texte). Mục đích của phương pháp này nhằm xây dựng lại thực tế lịch sử nhờ bản văn và thử tìm xem ý định của “tác giả thực sự” muốn nói gì. Phương pháp này xem bản văn như là một tài liệu lịch sử.

 

     Những câu hỏi đặt ra cho đoạn văn Mc 1,29-31:

 

1. Có thể nói gì về biến cố lịch sử kể lại trong bản văn?

 

2. Bản văn được viết trong hoàn cảnh lịch sử nào?

 

3. Làm thế nào truyền thống (truyền khẩu hay chữ viết) về câu chuyện này đến được với tác giả thực sự?

 

4. “Tác giả thực sự” đã hiểu bản văn như thế nào và muốn nói với “độc giả thực sự” vào những năm 60 – 70 điều gì?

 

Xem định nghĩa các thuật ngữ “tác giả thực sự”, “độc giả thực sự”, “tác giả tiềm ẩn”, “độc giả tiềm ẩn”, “người thuật chuyện”… ở mục:Khái niệm tác giả – độc giả” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc, tr. 37-41.

 

     2. Phân tích cấu trúc (analyse structurale)

 

Phương pháp “phê bình lịch sử” chú ý đến những thông tin lịch sử trong bản văn, trong khi “phân tích cấu trúc” (analyse structurale) chú trọng đến chính bản văn. Phân tích cấu trúc coi trọng việc quan sát ngôn ngữ trong bản văn và cách thức xây dựng bản văn với nguyên tắc: Ý nghĩa của bản văn ở trong bản văn (không dựa vào các dữ liệu ngoài bản văn). Phân tích cấu trúc để ý đến “thế giới bản văn” (le monde du texte) và ít quan tâm đến “thế giới lịch sử” (le monde historique) đằng sau bản văn.

 

     Những câu hỏi đặt ra cho trình thuật Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ của Phê-rô ở Mc 1,29-31:

 

1. Đâu là từ ngữ và các ý tưởng xuất hiện trong bản văn?

 

2. Từ ngữ và ý tưởng ấy tiến triển và nối kết với nhau như thế nào?

 

3. Bản văn được xây dựng và cấu trúc theo cách nào: Cấu trúc đồng tâm, cấu trúc song song hay cấu trúc theo ý tưởng?

 

4. Yếu tố thời gian và không gian được trình bày ra sao?

 

5. Sự chuyển đổi từ trạng thái “nằm” trên giường của bà mẹ vợ Phê-rô, đến trạng thái được Đức Giê-su “đỡ dậy”, rồi tiếp đến là hành động “đứng lên” và “phục vụ” có ý nghĩa gì?

 

6. Việc Đức Giê-su “đến gần”  và cơn sốt “ra đi” gợi lên điều gì cho độc giả?

 

7. Điều gì được nói đến, được nhấn mạnh trong bản văn, điều gì không được nói đến?

 

     3. Phân tích thuật chuyện (analyse narrative)

 

Phân tích thuật chuyện chú trọng tương tác giữa “tác giả tiềm ẩn” và “độc giả tiềm ẩn”. Người kể câu chuyện được gọi là “người thuật chuyện” (người viết câu chuyện) cho “người nghe” (người đọc bản văn). Khi kể câu chuyện, “người thuật chuyện” muốn chuyển tải một thông điệp nào đó cho người đọc qua trình thuật. Như thế, mục đích của việc đọc bản văn là hiểu được sứ điệp của bản văn.

 

     Với đoạn văn cụ thể Mc 1,29-31, câu hỏi đặt ra:

 

1. Cách thức tác giả kể chuyện dẫn đưa người đọc đến cách hiểu câu chuyện theo hướng nào?

 

2. Tác giả tiềm ẩn muốn nói với người đọc tiềm ẩn điều gì qua câu chuyện?

 

3. Điều tác giả muốn nói được chuyển tải bằng các tình tiết nào?

 

4. Trong Mc 1,29-31, các nhân vật đi vào câu chuyện ra sao? Tại sao Đức Giê-su lại xuất hiện sau cùng?

 

5. Từ việc các môn đệ báo cho Đức Giê-su biết, đến hiệu quả việc chữa lành: sự phục vụ có ý nghĩa gì?

 

Kết luận

 

Xác định mục tiêu khác nhau của các phương pháp khác nhau như trên giúp độc giả xác định hướng đi trước khi đọc bản văn Kinh Thánh. Ngược lại, chỉ cần nghe câu hỏi cũng có thể biết phần nào câu hỏi ấy thuộc loại phương pháp nào.

 

Nếu độc giả muốn tìm hiểu lịch sử thì áp dụng phương pháp “phê bình lịch sử”. Phương pháp này đạt tới thời hoàng kim vào những thập niên 1960, 1970, nhưng hiện nay đang gặp không ít khó khăn. Thực vậy, những kết luận dựa trên lịch sử thường rất phức tạp và gây tranh cãi trong chi tiết, bởi vì có nhiều lập trường khác nhau dẫn đến nhiều cách giải thích khác nhau. Trong những thập niên vừa qua, phương pháp phê bình lịch sử đã “bị đem ra đặt vấn đề”. Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng nhận định: “Đúng vào lúc phương pháp khoa học phổ biến nhất, tức là phương pháp ‘phê bình lịch sử’, đang được áp dụng trong khoa chú giải, kể cả chú giải công giáo, thì phương pháp này lại bị đem ra đặt vấn đề” (ỦY BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội,tr. 31).

 

Ngày nay, có nhiều cố gắng đưa Kinh Thánh trở lại mục đích ban đầu: Bản văn Kinh Thánh là một thông điệp mặc khải, nhằm giáo huấn cộng đoàn và giúp độc giả sống ý nghĩa của bản văn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc đọc Kinh Thánh có khả năng nuôi dưỡng đời sống tâm linh của độc giả. Các lối tiếp cận cấu trúc và thuật chuyện có thể giúp độc giả thực hiện điều này. Hai lối tiếp cận này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong việc học hỏi và nghiên cứu Kinh Thánh. Những kết quả nghiên cứu của “phân tích cấu trúc” và “phân tích thuật chuyện” có sức thuyết phục vì tập trung vào bản văn và lập luận dựa trên bản văn. Thay vì đi tìm lịch sử trong bản văn, xu hướng học hỏi Kinh Thánh ngày nay chú trọng đến việc đi tìm ý nghĩa của bản văn, tìm cách hiểu thông điệp mặc khải trong bản văn để được sống và được nuôi dưỡng.

 

Vào thập niêm 1980 đã xảy ra xung đột giữa các phương pháp tìm hiểu Kinh Thánh. Nhưng ngày nay, người ta thường nói đến sự bổ túc giữa các phương pháp. Mỗi phương pháp đều có điểm mạnh và điểm yếu của nó. Cần áp dụng các phương pháp cách uyển chuyển và sáng tạo. Điều quan trọng là áp dụng phương pháp thế nào để việc tìm hiểu bản văn Kinh Thánh trở thành bổ ích, hấp dẫn, phong phú và thú vị./

 

Ngày 04 tháng 03 năm 2012.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/03/ba-phuong-phap-phan-tich-ba-cach-at-cau.html

 

 

Phương pháp đọc KT: Cấu trúc một đoạn văn

 

Như đã trình bày trong bài viết: “Ba phương pháp phân tích, ba cách đặt câu hỏi”, hai phương pháp phân tích bản văn Kinh Thánh phổ biến hiện nay là phân tích thuật chuyện và phân tích cấu trúc. Bài viết này sẽ tìm hiểu các kiểu cấu trúc một đoạn văn. Tìm hiểu cấu trúc đoạn văn là bước quan trọng để xem các ý tưởng trong đoạn văn được sắp xếp và xây dựng như thế nào. Trong đoạn văn được chọn để phân tích, điều gì nói trước, điều gì nói sau, và các ý tưởng tiến triển theo thứ tự nào. Độc giả cần chú ý xem có các ý tưởng song song hay có các từ ngữ lặp đi lặp lại không. Mục đích của việc tìm hiểu cấu trúc là để biết đoạn văn được xây dựng như thế nào, có bao nhiêu ý, đề tài nào được nhấn mạnh, câu chuyện dùng từ ngữ nào v.v…

 

Bất cứ đoạn văn nào cũng có thể xếp vào ba loại cấu trúc tổng quát như sau: (1) Cấu trúc đồng tâm; (2) Cấu trúc song song; (3) Cấu trúc theo tiểu đoạn.

 

1. Cấu trúc đồng tâm

 

Một đoạn văn có cấu trúc đồng tâm sẽ có các tiểu đoạn trong đoạn văn ấy được sắp xếp theo kiểu đồng tâm. Trong cấu trúc đồng tâm, nếu có yếu tố trung tâm, các tiểu đoạn sẽ được sắp xếp theo thứ tự: A, B, C, B’, A’. Nếu cấu trúc đồng tâm không có yếu tố trung tâm, các tiểu đoạn được sắp xếp theo thứ tự: A, B, C, C’, B’, A’.Cấu trúc đồng tâm có các tiểu đoạn song song: A // A’, B // B’, C // C’… Cấu trúc đồng tâm có thể được xây dựng trong một đoạn văn dài gồm nhiều trình thuật nối tiếp nhau, hay đồng tâm chỉ trong một câu. Sau đây là ví dụ hai hình thức cấu trúc đồng tâm này.

 

Mc 2,1–3,6 là một đoạn văn dài gồm năm trình thuật nối tiếp nhau, được cấu trúc theo dạng đồng tâm như sau:

 

 

Năm trình thuật Tin Mừng Mác-cô trên đây có cấu trúc đồng tâm với yếu tố trung tâm (C): A, B, C, B’ A’. Trong đó A // A’ vì đều là trình thuật chữa lành. B // B’ vì có chung đề tài ăn uống. Yếu tố trọng tâm C: Ăn chay. Trong tiểu đoạn trung tâm này, Đức Giê-su nói đến đề tài quan trọng: “Cũ” (Cựu Ước) và “mới” (Tân Ước). Tất cả những đoạn văn song song: A // A’ và B // B’ soi sáng cho đề tài “cũ” và “mới” này. Đó là cũ và mới giữa Cựu Ước và Tân Ước, cũ và mới giữa trước khi Đức Giê-su xuất hiện và sau khi Đức Giê-su xuất hiện. Cũ và mới liên quan đến quyền tha tội của Đức Giê-su và việc giữ ngày sa-bát… Bảng cấu trúc trên cho thấy mỗi trình thuật vừa nối kết, vừa soi sáng cho các trình thuật khác, nhờ đó độc giả có thể đọc ra được ý nghĩa của chúng trong mạch văn.

 

Có trường hợp cấu trúc đồng tâm xuất hiện chỉ trong một câu như ở Mc 4,13. Sau khi kể dụ ngôn hạt giống (Mc 4,1-9), Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Anh em không hiểu biết dụ ngôn này sao? Vậy làm sao anh em hiểu biết được tất cả các dụ ngôn? (Mc 4,13). Câu này cấu trúc đồng tâm:

 

 

Mc 4,13 có cấu trúc đồng tâm không có yếu tố trung tâm: A, B, C, C’, A’, B’. A: “Không hiểu biết” // A’: “Làm sao biết?”. B: “Dụ ngôn” (số ít) // B’: “Các dụ ngôn” (số nhiều). C: (Dụ ngôn) “này” // C’: “Tất cả” (các dụ ngôn). Cấu trúc này đề cao hai ý tưởng: (1) Dụ ngôn hạt giống giúp hiểu ý nghĩa các dụ ngôn khác. (2) Sự tương phản giữa số ít (A, B, C) và số nhiều (C’, A’, B’) làm cho dụ ngôn hạt giống được kể trước đó (Mc 4,1-9) trở thành dụ ngôn quan trọng. Nếu không hiểu dụ ngôn hạt giống thì cũng không hiểu tất cả các dụ ngôn khác. Cấu trúc đồng tâm Mc 4,13 mời gọi độc giả dành thời gian để tìm hiểu kỹ hai đoạn văn liên quan đến dụ ngôn hạt giống: “Dụ ngôn” (Mc 4,3-9) và “Áp dụng dụ ngôn” (4,13-20).

 

2. Cấu trúc song song

 

Một đoạn văn có cấu trúc song song, khi các ý tưởng được sắp xếp theo dạng song song: A, B, C, A’, B’, C’.  Trong đó, A // A’, B // B’, C // C’. Cấu trúc song song cũng có thể tìm thấy trong một vài câu hay trong nhiều đoạn văn.

 

Chẳng hạn, lời rao giảng của Đức Giê-su ở Mc 1,15: “Thời gian đã viên mãn, và Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và hãy tin vào tin mừng” có cấu trúc song song A, B, A’, B’ như sau:

 

 

Yếu tố A: “Thời kỳ đã mãn” // A’: Lời mời gọi “sám hối”. B: “Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần” // B’: Lời mời gọi “tin vào tin mừng”. Cấu trúc trên làm rõ hai lời mời gọi tương ứng với hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là “sám hối” quay lưng lại với những gì đã cũ. Giai đoạn thứ hai là “tin vào tin mừng” vì “Triều Đại của Thiên Chúa đã đến gần”. Mc 1,15 thuộc lời tựa sách Tin Mừng Mác-cô (Mc 1,1-15), là phần nói về mục đích sứ vụ công khai của Đức Giê-su. Tất cả những gì thuật lại trong Tin Mừng Mác-cô nhằm mục đích dẫn độc giả đến hành động “sám hối” và “tin vào tin mừng”. Nếu đọc hết sách Tin Mừng mà độc giả chưa bước vào tiến trình “sám hối” và “tin vào tin mừng” thì vẫn chưa đáp trả trọn vẹn lời mời gọi của sách Tin Mừng Mác-cô. 

 

Đoạn văn dài trong Tin Mừng Gio-an (Ga 10,1-21) dùng hai hình ảnh “cửa ràn chiên” và “mục tử” có cấu trúc song song: A, B, C,A’, B’, C’. Dụ ngôn cửa ràn chiên và mục tử tốt (Ga 10,1-21) có cấu trúc song song với hai phần: (I) Đức Giê-su kể dụ ngôn. (II) Đức Giê-su giải thích dụ ngôn. Đoạn văn Ga 10,1-21 được cấu trúc như sau:

 

 

Phần I: “Dụ ngôn” (Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ ba) song song với Phần II: “Giải thích dụ ngôn” (Đức Giê-su dùng đại từ ngôi thứ nhất). Mỗi phần gồm ba yếu tố, vừa song song, vừa soi sáng lẫn nhau. Nếu như trong yếu tố A, Đức Giê-su nói về “cửa ràn chiên” thì trong yếu tố A’ Đức Giê-su cho biết “cửa” đó là chính Người. Nếu như trong yếu tố B Đức Giê-su nói về “mục tử và người lạ” thì trong yếu tố B’ Đức Giê-su cho biết chính Người là “Mục tử tốt”. Nếu như trong yếu tố C người thuật chuyện cho độc giả biết “những người Pha-ri-sêu không hiểu” thì trong yếu tố C’ người thuật chuyện cho biết: “Những người Do Thái chia rẽ”, nghĩa là có những người Do Thái đón nhận Đức Giê-su và có những người Do Thái không đón nhận Người.

 

3. Cấu trúc theo tiểu đoạn

 

Trong trường hợp không có các yếu tố đồng tâm hay song song trong đoạn văn, độc giả có thể xây dựng cấu trúc theo các đề tài. Chẳng hạn, bốn trình thuật khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su trong Mác-cô (Mc 1,21-45) có cấu trúc:

 

 

Sau khi chọn bốn môn đệ đầu tiên (Mc 1,16-20), Đức Giê-su khởi đầu sứ vụ công khai qua bốn đoạn văn như trong bảng cấu trúc trên. Cấu trúc này làm lộ ra những hoạt động chính trong sứ vụ Đức Giê-su: “giảng dạy”, “trừ quỷ”, “chữa lành” và “cầu nguyện”.

 

Ở cuối hai tiểu đoạn 1, 2 (1,32-33) và cuối hai tiểu đoạn 3, 4 (1,45), bản văn nói đến sự thành công của Đức Giê-su. Thành công giai đoạn 1 (1,32-33) xảy ra ở Ca-pha-na-um, cụ thể là mọi người tụ tập trước cửa nhà ông Si-môn. Thành công giai đoạn 2 (1,39.45) xảy ra khi dân chúng khắp vùng Ga-li-lê đến với Người. Sự thành công ngày càng lan rộng theo hướng: Ca-pha-na-um à Ga-li-lê à Vùng lân cận. Cấu trúc trên cho thấy tiến triển thần học Tin Mừng Mác-cô: Giới thiệu căn tính của Đức Giê-su và niềm vui lớn lao của dân chúng được gặp gỡ Người. Liệu độc giả có hăm hở tìm đến với Đức Giê-su để được nghe Người giảng, được Người chữa lành và được ở với Người như dân chúng khắp vùng Ga-li-lê không?

 

Tin Mừng Gio-an, chương 17 cũng có cấu trúc theo các đề tài như sau:

 

 

Ga 17 được chia thành năm tiểu đoạn với những đề tài cụ thể cho từng tiểu đoạn. Qua cấu trúc trên, độc giả nhận ra ý tưởng chính của Ga 17 không phải là “Lời nguyện hiến tế” như người ta gán cho Ga 17 mà dựa vào nội dung, Ga 17 là “Lời nguyện sứ vụ”. Trong Ga 17, Đức Giê-su trình bày với Cha về sứ vụ của Người. Người đã hoàn thành sứ vụ Cha giao phó (Ga 17,4). Tiếp đến, Đức Giê-su ngỏ lời với Cha về sứ vụ của các môn đệ trong thế gian. Người xin cho các môn đệ qua mọi thời đại được hiệp nhất nên một (Ga 17,21-23). Sự hiệp nhất giữa các môn đệ là lời chứng sống động có khả năng làm cho thế gian “nhận biết” Đức Giê-su là ai và “tin” vào Người (Ga 17,21.23).

 

Kết luận

 

Mục đích của việc tìm hiểu cấu trúc bản văn là để biết câu chuyện được xây dựng và kết cấu như thế nào. Phần cấu trúc đoạn văn thường được trình bày trong một bảng đóng khung gồm các tiểu đoạn theo trình tự câu chuyện (không đảo lộn thứ tự các câu văn). Tiếp đến là lý giải cấu trúc bằng cách trả lời các câu hỏi: Bản văn được chia làm mấy phần? Tại sao chia các tiểu đoạn như thế? Đề tài chính của mỗi tiểu đoạn là gì? Các đề tài được diễn tả bằng từ ngữ nào? Các ý tưởng tiến triển và liên kết với nhau ra sao? Vấn đề đặt ra ở đầu trình thuật được giải quyết như thế nào ở cuối trình thuật?

 

Những quan sát trên giúp độc giả hiểu rõ bản văn trước khi phân tích bản văn. Trong quá trình phân tích chi tiết bản văn có thể dẫn đến chỉnh sửa cấu trúc, nhằm làm cho phần cấu trúc có sức thuyết phục hơn và rõ ràng hơn. Như thế, trong tinh thần tôn trọng bản văn, tìm hiểu cấu trúc là một phần quan trọng trong tiến trình tìm hiểu bản văn. Các bước chuẩn bị khác để tìm hiểu bản văn là tìm hiểu phân đoạn, bối cảnh văn chương và các yếu tố nhân vật, thời gian và không gian. Những yếu tố này sẽ được trình bày trong các bài viết khác. Xem đề tài này trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư./.

 

Ngày 11 tháng 03 năm 2012.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/03/phuong-phap-oc-kt-cau-truc-mot-oan-van.html

 

 

 

[3] Phân tích một số đoạn văn Các bước tìm hiểu một đoạn văn Kinh Thánh.

 

(a) - Đọc kỹ ba đoạn văn trong Tin Mừng Gio-an (Ga 6,1-71; Ga 11,1-54; Ga 18,28–19,16a) và phần III: “Gợi ý phân tích một số đoạn văn” trong bài viết: “Các bước tìm hiểu một đoạn văn Kinh Thánh.”

 

 

 

(b) - Phân biệt “sự thật bản văn” và “sự thật lịch sử”

 

Câu hỏi gợi ý:

1) Phân biệt tác giả thực sự và tác giả tiềm ẩn.

2) Phân biệt độc giả thực sự và độc giả tiềm ẩn.

3) Phân biệt sự thật lịch sử và sự thật bản văn.

4) Phân biệt nhân vật lịch sử và nhân vật trong bản văn.

 

Nội dung

 

Dẫn nhập

1. Phân biệt thực tế lịch sử với các tình tiết trong bản văn

2. Phân biệt “nhân vật lịch sử” và “nhân vật trong bản văn”

3. Phân biệt “tác giả, độc giả thực sự” và “tác giả, độc giả tiềm ẩn”

Kết Luận

 

Dẫn nhập

 

Phân tích thuật chuyện và cấu trúc sử dụng lối tiếp cận đồng đại (approche synchronique), vì thế phương pháp phân tích này lấy bản văn làm trọng tâm và xem bản văn như một tổng thể có ý nghĩa. Khi áp dụng phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào Tin Mừng Gio-an, tác giả G. S. Sloyan viết: “Chúng ta có thể thoáng thấy lịch sử của cộng đoàn Gio-an qua cửa sổ Tin Mừng, nhưng mục đích của tác giả sách Tin Mừng trước tiên không phải là lịch sử mà là một câu chuyện tường thuật” (G. S. SLOYAN, What are They Saying about John?, New York, Mahwah, Paulist Press, 1991, p. 5). P. Létourneau khẳng định: “Một khi đã được viết ra, bản văn tự nó tồn tại và trở thành ‘nơi có ý nghĩa’ một cách độc lập” (P. LÉTOURNEAU, Jésus, Fils de l’homme et Fils de Dieu, Jean 2,23–3,36 et la double christologie johannique, (Rech.NS 27), Montréal – Paris, Bellarmin – Le Cerf, 1993, p. 14-15). Phương pháp thuật chuyện và cấu trúc lấy bản văn làm dữ liệu để phân tích và xem bản văn như một bức tranh để chiêm ngắm hay một toà nhà để thăm viếng. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc giúp độc giả quan sát chính bức tranh hay toà nhà văn chương để tìm ra ý nghĩa của các chi tiết trong bức tranh hay trong toà nhà ấy. Xem mục “Tiếp cận lịch đại và tiếp cận đồng đại” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc, tr. 14-16.

 

Để áp dụng hiệu quả phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc, cần phân biệt giữa “sự thật bản văn” và “sự thật lịch sử”. Sự thật lịch sử phức tạp và huyền nhiệm. Sự thật này vượt ra khỏi tầm tay của độc giả, bởi vì độc giả chỉ có trong tay bản văn mà thôi. Cho dù bản văn phản ánh một số chi tiết lịch sử, nhưng bản văn và lịch sử là hai thực tại khác nhau, không trùng khớp với nhau. Mục đích của phân tích thuật chuyện và cấu trúc là đi tìm ý nghĩa của câu chuyện được kể lại trong bản văn chứ không đi tìm lịch sử. Tìm hiểu lịch sử là việc làm của các nhà sử học.

 

Phân biệt “sự thật lịch sử” và “sự thật bản văn” giúp độc giả không dẫm chân lên lãnh vực sử học và chú tâm vào việc tìm hiểu ý nghĩa của bản văn.

Phần sau đây sẽ trình bày ba mục:

1) Phân biệt thực tế lịch sử với tình tiết trong bản văn.

2) Phân biệt nhân vật lịch sử và nhân vật trong bản văn.

3) Phân biệt “tác giả, độc giả thực sự” và “tác giả, độc giả tiềm ẩn”.

Đây là những đóng góp độc đáo của lối phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào việc tìm hiểu bản văn Kinh Thánh.

 

1. Phân biệt thực tế lịch sử với các tình tiết trong bản văn

 

Phân biệt thực tế lịch sử với những gì được thuật lại trong bản văn là điều quan trọng. Đây là hai thực tại có liên hệ với nhau, nhưng chúng hoàn toàn khác nhau. Sự phân biệt này giúp độc giả tránh được những bối rối, khi thấy cùng là một sự kiện, nhưng các sách Tin Mừng thuật lại với những chi tiết khác nhau, thậm chí mâu thuẫn và không thể dung hoà được với nhau.

 

Chẳng hạn, các sách Tin Mừng đều nói về phép lạ hay dấu lạ Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều. Trình thuật “Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều” được thuật lại trong các sách Tin Mừng ở Mc 6,30-44; 8,1-19; Mt 14,13-21; Lc 9,10-17; Ga 6,1-13. Có nhiều chi tiết khác nhau trong các trình thuật. Khi so sánh trình thuật “Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều” trong Tin Mừng Mác-cô và trong Tin Mừng Gio-an, độc giả sẽ thấy nhiều chi tiết khác nhau. Trong đó, điểm khác biệt đáng chú ý là: Theo trình thuật Mc 6,30-44, sau khi Đức Giê-su làm phép lạ bánh hoá nhiều, Người trao cho các môn đệ và các môn đệ cho phân phát cho dân chúng ăn. Ý tưởng này được nhấn mạnh, vì trước khi làm phép lạ, Đức Giê-su nói với các môn đệ: “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Mc 6,37). Người thuật chuyện cho độc giả biết: Đức Giê-su thực hiện lời nói trên (Mc 6,41) khi kể rằng: “Người (Đức Giê-su) cầm lấy năm cái bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời chúc tụng bẻ bánh ra và trao cho môn đệ [của Người] để các ông dọn ra cho họ” (xem Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt). Khác với Tin Mừng Mác-cô, Tin Mừng Gio-an trình bày dấu lạ bánh hoá nhiều cách khác: Chính Đức Giê-su phân phát cho đám đông ăn. Ga 6,11 cho biết: “Đức Giê-su cầm lấy bánh, tạ ơn, trao cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng làm như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ ý” (xem Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư, Hy Lạp – Việt).

 

Nếu không phân biệt thực tế lịch sử với bản văn, độc giả sẽ bối rối vì không biết trình thuật của Tin Mừng Mác-cô hay của Tin Mừng Gio-an đúng với thực tế lịch sử. Trước đây, các nhà Kinh Thánh đã đưa ra những giả thuyết để trả lời cho câu hỏi này, nhưng không đạt được sự đồng thuận vì thiếu những bằng chứng có sức thuyết phục để khẳng định trình thuật của Tin Mừng nào (Mác-cô hay Gio-an) đúng với thực tế lịch sử hơn. Hơn nữa, giả như biết được Tin Mừng nào đúng với thực tế lịch sử hơn thì cũng chẳng ích lợi bao nhiêu cho việc tìm hiểu ý nghĩa của bản văn.

 

Tìm hiểu Kinh Thánh theo hướng này có nguy cơ làm nghèo sự phong phú của bản văn và có thể dẫn đến việc coi trọng bản văn này hơn bản văn khác, vì nghĩ rằng bản văn này phản ánh đúng lịch sử hơn bản văn kia. Việc phân biệt “thực tế lịch sử” với “sự thật trong bản văn” giải thoát độc giả khỏi những khó khăn trên đây để đi tìm giá trị mặc khải trong tất cả các bản văn Kinh Thánh. Độc giả sẽ thấy rằng: Cả hai trình thuật Đức Giê-su hoá bánh ra nhiều (trong Tin Mừng Mác-cô và trong Tin Mừng Gio-an) đều quan trọng. Mỗi trình thuật trình bày một khía cạnh mặc khải về vai trò của Đức Giê-su và vai trò của các môn đệ.

 

Khi viết sách Tin Mừng, các tác giả đã dựa vào những gì Đức Giê-su thực hiện trong cuộc đời công khai. Về mặt lịch sử, có thể khẳng định Đức Giê-su đã thực hiện phép lạ bánh hoá nhiều. Nhưng các chi tiết lịch sử của biến cố này vượt khỏi sự nắm bắt của độc giả, bởi vì các tác giả sách Tin Mừng không thuật lại biến cố như báo chí tường thuật sự kiện. Mục đích của các tác giả sách Tin Mừng khi kể lại câu chuyện là nhằm chuyển tải cho một cộng đoàn cụ thể (cộng đoàn Mác-cô, cộng đoàn Gio-an...) những thông điệp chứa đựng trong bản văn với mục đích là giúp cộng đoàn hiểu giáo huấn của Đức Giê-su và sống niềm tin của họ.

 

Phân tích thuật chuyện và cấu trúc cố gắng tìm ra những thông điệp chứa đựng trong bản văn, chứ không đi tìm thực tế lịch sử đằng sau câu chuyện. Lựa chọn về phương pháp này giúp độc giả nhận ra sự phong phú của bản văn qua những khía cạnh mặc khải phong phú trong từng bản văn. Chẳng hạn, trình thuật bánh hoá nhiều trong Tin Mừng Mác-cô nhấn mạnh đề tài: “Sự cộng tác của các môn đệ vào sứ vụ của Đức Giê-su”, vì Người trao cho các ông nhiệm vụ phân phát bánh cho dân chúng. Còn Tin Mừng Gio-an lại nhấn mạnh đến căn tính của Đức Giê-su qua việc chính Người cho dân chúng ăn. Đức Giê-su của Tin Mừng Gio-an cho dân chúng ăn, vì chính Người là bánh từ trời xuống và chính Người ban sự sống cho thế gian. Trong phần diễn từ về bánh sự sống (Ga 6,25-59), Đức Giê-su khẳng định với đám đông đã chứng kiến dấu lạ bánh hoá nhiều: “32A-men, a-men, Tôi nói cho các ông: Không phải Mô-sê đã cho các ông bánh bởi trời, nhưng chính Cha của Tôi cho các ông bánh bởi trời, bánh đích thực, 33vì bánh của Thiên Chúa là bánh xuống từ trời, và ban sự sống cho thế gian” (Ga 6,32-33).

 

Tóm lại, phân biệt thực tế lịch sử với bản văn, và đi tìm ý nghĩa của câu chuyện được kể lại chứ không đi tìm thực tế lịch sử, cho phép độc giả đọc ra được những điểm thần học quan trọng trong cả hai trình thuật bánh hoá nhiều trong Tin Mừng Mác-cô và trong Tin Mừng Gio-an.

 

2. Phân biệt “nhân vật lịch sử” và “nhân vật trong bản văn”

 

Từ phân biệt thực tế lịch sử với các tình tiết được thuật lại trong bản văn như trên, dẫn đến phân biệt các nhân vật lịch sử với các nhân vật trong bản văn. Cũng tương tự như sự rộng lớn và huyền nhiệm của thực tế lịch sử so với các chi tiết trong bản văn, sự thật về các nhân vật lịch sử cũng rộng lớn, huyền nhiệm và bí ẩn hơn so với những gì được thuật lại trong bản văn.

 

Chẳng hạn, nhân vật Giu-đa được thuật lại trong bốn sách Tin Mừng cho độc giả biết một số chi tiết về con người Giu-đa lịch sử. Nhưng vẫn còn đó một khoảng cách lớn lao giữa nhân vật lịch sử và nhân vật trong bản văn. Nhân vật lịch sử có những chuyển biến nội tâm trong từng khoảng khắc, nên vượt ra khỏi sự nắm bắt của độc giả. Bởi vì cái độc giả có trong tay là một số chi tiết về nhân vật trong bản văn chứ không phải là nhân vật lịch sử. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc giới hạn lãnh vực nghiên cứu trong bản văn. Nói cách khác, phân tích thuật chuyện và cấu trúc không có thẩm quyền nói về lịch sử. Hãy để các nhà sử học nghiên cứu nhân vật lịch sử, còn nhiệm vụ của phân tích thuật chuyện và cấu trúc là tìm hiểu nhân vật văn chương, đó là nhân vật được thuật lại trong bản văn.

 

Mỗi đoạn văn trình bày các nhân vật với những chi tiết khác biệt. Có thể lấy nhân vật Giu-đa làm ví dụ. Mỗi sách Tin Mừng vẽ lên khuôn mặt nhân vật Giu-đa với những đường nét khác nhau. Chẳng hạn, sau khi nộp Đức Giê-su và thấy Người bị kết án thì Giu-đa hối hận đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ mục. Chi tiết này chỉ được thuật lại trong Tin Mừng Mát-thêu (Mt 27,3). Trong Tin Mừng Gio-an, nhân vật Giu-đa được trình bày với nhiều nét đặc trưng khác so với Tin Mừng Nhất Lãm.

 

Có thể kể năm đặc điểm của nhân vật Giu-đa trong Tin Mừng Gio-an:

(1) Nhân vật Giu-đa trong bản văn Gio-an thường được gọi là “người sẽ nộp Đức Giê-su”. Kiểu nói này mở đầu (Ga 6,60-71) và kết thúc câu chuyện về Giu-đa (Ga 13,1-32).

(2) Nhân vật Giu-đa được đề cao khi Giu-đa được gọi là “Một người trong Nhóm Mười Hai”, nhưng nhân vật này lại có liên hệ với quỷ và Xa-tan (Ga 6,70-71; 13,2.27).

(3) Sự hiện diện cũng như sự vắng mặt của Giu-đa trong nhóm các môn đệ là dấu hiệu sự khủng hoảng trong nội bộ nhóm các môn đệ về lòng trung tín đối với Thầy. Vì Giu-đa là một người trong Nhóm đã nộp Thầy và đã rời khỏi Nhóm (Ga 13,30).

(4) Trong đoạn văn Ga 13,1-32, Giu-đa là một nhân vật không có cảm xúc, không nói một lời nào, Ga 13,1-32 mở đầu bằng chi tiết: “Quỷ gieo vào lòng Giu-đa ý định nộp Đức Giê-su” (Ga 13,2) và kết thúc câu chuyện với việc “Xa-tan nhập vào Giu-đa (Ga 13,27). Những chi tiết này cho thấy chính quỷ và Xa-tan đứng sau việc Giu-đa nộp Thầy.

(5) Cuối cùng Giu-đa rời khỏi bữa ăn, đi ra ngoài, lúc đó trời đã tối (Ga 13,30). Giu-đa đi vào “đêm tối” để thực hiện ý định “đen tối” của thế lực “bóng tối”. (Xem phân tích về nhân vật Giu-đa trong bài viết: “cấu trúc”, “nhân vật”, “thời gian” và “không gian” trong Ga 13,1-32).

 

Các chi tiết riêng của Tin Mừng Gio-an về nhân vật Giu-đa trên đây gợi lên những ẩn ý sâu xa về thần học. Trong đoạn văn Ga 13,1-32, nhân vật Giu-đa không bày tỏ cảm xúc, không nói lời nào, nhưng mau mắn hành động: “Sau khi nhận lấy miếng bánh, ông ấy [Giu-đa] đi ra ngay lập tức. Lúc đó, trời đã tối” (13,30). Những chi tiết trong đoạn văn Ga 13,1-32 liên quan đến Giu-đa đã làm cho nhân vật này trở thành công cụ của quỷ, công cụ của Xa-tan. Nếu như khi những người Do Thái tìm giết Đức Giê-su là họ đang làm công việc của quỷ (Ga 8,44) thì khi Giu-đa nộp Đức Giê-su, ông ấy cũng đang thực hiện công việc của quỷ và là người thuộc về quỷ.

 

Đây là nét đặc trưng của nhân vật Giu-đa trong Tin Mừng Gio-an. Nhân vật Giu-đa được thuật lại như trên có ý nghĩa đối với độc giả. Bản văn gợi đến hoàn cảnh của cộng đoàn Gio-an vào cuối thế kỷ I và qua đó là cộng đoàn người tin qua mọi thời đại. Trong hoàn cảnh cộng đoàn bị bách hại, có thể đã xuất hiện những thành viên trong cộng đoàn nộp Thầy, nộp anh em mình. Như Giu-đa là “một trong Nhóm Mười Hai”, có thể một số môn đệ Đức Giê-su đã trở thành công cụ của quỷ và làm công việc của quỷ. Như thế, nhân vật Giu-đa trở thành lời cảnh báo cho từng thành viên trong cộng đoàn, đồng thời mời gọi độc giả đừng trở thành công cụ của quỷ, nhưng hãy lắng nghe và thực thi giáo huấn của Đức Giê-su. Trong hoàn cảnh bị thử thách, người môn đệ hãy xác tín vào tình yêu Đức Giê-su dành cho mình (Ga 13,1) và tin là Đức Giê-su đã chiến thắng thế lực đen tối (Ga 16,33), nhờ đó người môn đệ có thể trung tín với Thầy cho đến cùng. Xem phân tích nhân vật Giu-đa trong bối cảnh khủng hoảng của các môn đệ, trong Khủng hoảng và giải pháp cho các môn đệ trong Tin Mừng thứ tư, tr. 80-91.

 

3. Phân biệt “tác giả, độc giả thực sự” và “tác giả, độc giả tiềm ẩn”

 

Trong chiều hướng phân biệt thực tế lịch sử với bản văn, phân tích thuật chuyện và cấu trúc phân biệt “tác giả và độc giả thực sự” với “tác giả và độc giả tiềm ẩn”. (Xem mục “tác giả thực sự” và “tác giả tiềm ẩn” trong bài viết “Ba phương pháp phân tích, ba cách đặt câu hỏi” cũng như các khái niệm về “tác giả” và “độc giả” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc, tr. 37-41.

 

Thông thường một tác phẩm xuất hiện là do một hay nhiều tác giả viết ra cho một nhóm độc giả nào đó. Tác giả viết ra tác phẩm là những con người cụ thể trong lịch sử, nên gọi là “tác giả thực sự”. Độc giả mà “tác giả thực sự” nhắm đến, gọi là “độc giả thực sự”. Chẳng hạn, bốn sách Tin Mừng được biết ra bởi các tác giả được linh hứng. Các tác giả đã sống vào thế kỷ I là các “tác giả thực sự” đã viết các sách Tin Mừng cho “những độc giả thực sự”. Họ là cộng đoàn Mát-thêu, cộng đoàn Mác-cô, cộng đoàn Lu-ca và cộng đoàn Gio-an. Đây là những cộng đoàn đã cưu mang và đón nhận sách Tin Mừng được viết ra cho họ. Họ là những “độc giả thực sự” của sách Tin Mừng.

 

Tương tự như “nhân vật lịch sử”, “tác giả thực sự” và “độc giả thực sự” là đối tượng nghiên cứu của ngành sử học. Cuộc đời của “tác giả thực sự” và “độc giả thực sự” này rộng lớn và phong phú hơn rất nhiều so với những chi tiết thuật lại trong bản văn. Để giới hạn lãnh vực và phạm vi nghiên cứu, phân tích thuật chuyện và cấu trúc lấy bản văn làm đối tượng để tìm hiểu, nên các lối phân tích văn chương này chỉ có thể nói tới “tác giả tiềm ẩn” và “độc giả tiềm ẩn”. Phân tích thuật chuyện và cấu trúc không chú trọng đến “tác giả thực sự” và “độc giả thực sự” mà tập trung tìm hiểu “tác giả tiềm ẩn” và “độc giả tiềm ẩn”.

 

“Tác giả tiềm ẩn” và “độc giả tiềm ẩn” là những khái niệm giúp hiểu bản văn. “Tác giả tiềm ẩn” là hình ảnh tác giả được xây dựng lên bằng những chi tiết và những đặc điểm trong bản văn. Chẳng hạn, “tác giả tiềm ẩn” của Tin Mừng Gio-an thích kiểu hành văn “hiểu lầm” và “châm biếm”; thích sử dụng một số từ ngữ đặc thù, như chỉ dùng từ “dấu lạ” mà không dùng từ “phép lạ”; chỉ dùng từ “môn đệ” chứ không dùng từ “tông đồ”; thích dùng ngôn ngữ biểu tượng như “ánh sáng”, “bóng tối”, “ở lại” trong ai đó v.v…; thích dùng diễn từ sau các dấu lạ v.v… Tất cả những đặc tính này được rút ra từ bản văn và có thể kiểm chứng trong bản văn. Càng đọc kỹ Tin Mừng, chúng ta càng biết hơn rõ khuôn mặt của “tác giả tiềm ẩn”.

 

“Độc giả tiềm ẩn” là độc giả được giả thiết là hiểu được những gì “tác giả tiềm ẩn” muốn nói qua bản văn. Vì thế, càng đọc bản văn chúng ta càng xích lại gần với “độc giả tiềm ẩn”, nhờ dần dần hiểu được những ẩn ý mà “tác giả tiềm ẩn” muốn nói. Độc giả ngày nay, chưa phải là “độc giả tiềm ẩn” mà đang cố gắng đứng vào vị trí của “độc giả tiềm ẩn” nhờ phân tích và tìm hiểu ý nghĩa bản văn.

 

Kết Luận

 

Sự phân biệt giữa lịch sử và bản văn như trên là yếu tố nền tảng trong cách phân tích thuật chuyện và cấu trúc. Tôn trọng lãnh vực nghiên cứu sử học và khai thác bản văn như một bức tranh, một toà nhà để tìm hiểu ý nghĩa của nó là đóng góp độc đáo của phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào việc học hỏi và tìm hiểu Kinh Thánh hiện nay. Có thể xem những bài viết khác trong mục:“Phương Pháp và kỹ thuật hành văn Kinh Thánh”./.

 

 

Ngày 01 tháng 04 năm 2012.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/04/phuong-phap-oc-kinh-thanh-phan-biet-su.html

 

 

(c) Bài đọc thêm:

Ba phương pháp phân tích, ba cách đặt câu hỏi (ví dụ: Mc 1,29-31)

Câu hỏi gợi ý:

1) Tóm tắt mục đích của ba phương pháp: (1) Phương pháp phê bình lịch sử, (2) phương pháp cấu trúc và (3) phương pháp thuật chuyện.

2) Để tìm hiểu ý nghĩa của đoạn văn, nên áp dụng phương pháp nào?

 

Ba phương pháp phân tích, ba cách đặt câu hỏi (ví dụ: Mc 1,29-31)

 

Có nhiều phương pháp để tìm hiểu một đoạn văn Kinh Thánh, trong đó ba cách tiếp cận bản văn phổ biến hiện nay:

1) Phân tích phê bình lịch sử (l’analyse historico-critique). 

2) Phân tích cấu trúc (l’analyse structurale).

3) Phân tích thuật chuyện (l’analyse narrative).

Xem trình bày sơ lược về ba phương pháp này ở mục: “PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH” trong tập sách Phân tích thuật chuyện và cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư.

 

Mỗi phương pháp phân tích khai thác những khía cạnh khác nhau của bản văn. Phần sau đây sẽ trình bày tóm tắt mục đích và sự khác nhau của mỗi lối tiếp cận bản văn. Mỗi phương pháp đặt ra cho bản văn những câu hỏi khác nhau, đoạn văn ngắn dùng làm ví dụ là Mc 1,29-31. (Xem D. MARGUERAT; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, Initiation à l’analyse narrative, Paris – Genève, Le Cerf – Labor et Fides, 2004 (3e édition), p. 9-11). Trước khi trình bày sơ lược ba phương pháp và áp dụng vào một đoạn văn cụ thể, cần giải thích vắn tắt về khái niệm “tác giả thực sự” và “tác giả tiềm ẩn”.

 

I. “Tác giả thực sự” và “tác giả tiềm ẩn”  

 

Ngày nay, người ta thường phân biệt hai loại tác giả: “tác giả thực sự” (auteur réel) và “tác giả tiềm ẩn” (auteur implicite, potentiel, virtuel).

 

“Tác giả thực sự” (auteur réel) có thể là cá nhân hay tập thể. Đó là nhân vật lịch sử đã viết ra bản văn. Việc tìm hiểu “tác giả thực sự” (nhân vật lịch sử) thuộc lãnh vực nghiên cứu sử học. Khi người đọc (độc giả qua mọi thời đại) đi tìm ý nghĩa bản văn, thì “tác giả thực sự” vượt ra ngoài sự nắm bắt của người đọc, bởi vì độc giả chỉ có trong tay bản văn mà thôi. Để tránh đi vào lãnh vực lịch sử (rất phức tạp và thường tranh luận), ngày nay người ta chú trọng đến: “tác giả tiềm ẩn”.

 

 “Tác giả tiềm ẩn” (auteur implicite) là tác giả được xây dựng lên từ bản văn, nghĩa là khi đọc bản văn, người đọc có thể xây dựng từ bản văn một hình ảnh về tác giả, nhờ những chi tiết trong bản văn. Tác giả này gọi là “tác giả tiềm ẩn”. Người đọc có thể nhận ra những đặc tính riêng của “tác giả tiềm ẩn” qua kiểu hành văn, qua những hình ảnh và cách dùng từ ngữ trong bản văn. “Tác giả tiềm ẩn” thể hiện phong cách của mình qua cách hành văn, qua cách trình bày và sắp xếp câu chuyện.

 

Vì những đặc tính của “tác giả tiềm ẩn” được rút ra từ bản văn, nên việc phân biệt giữa “tác giả tiềm ẩn” và “tác giả thực sự” (nhân vật lịch sử) là quan trọng khi tìm hiểu ý nghĩa bản văn. Sự phân biệt này giúp người đọc ý thức giới hạn của mình khi nói đến “tác giả thực sự”. Nếu không phải là nhà nghiên cứu lịch sử, người đọc chỉ có thể nói đến “tác giả tiềm ẩn” (với những đặc điểm trong bản văn), nghĩa là độc giả không đủ thẩm quyền nói về “tác giả thực sự”. Thông thường, mục đích của độc giả không phải là nghiên cứu lịch sử mà là tìm hiểu ý nghĩa đoạn văn mình đang đọc.

 

Có thể nói khái quát rằng: “tác giả thực sự” là đối tượng tìm hiểu của phương pháp phê bình lịch sử. Ngược lại, “phân tích cấu trúc” và “phân tích thuật chuyện” không quan tâm nhiều đến “tác giả thực sự” mà chú trọng đến “tác giả tiềm ẩn”, bởi vì mục đích của hai lối tiếp cận này là tìm hiểu ý nghĩa bản văn, bằng cách dựa vào chính nội dung câu chuyện được thuật lại.

 

II. Bản văn Mc 1,29-31:

Bản dịch lấy trong: Tin Mừng Mác-cô Hy Lạp – Việt1,29Ra khỏi hội đường, lập tức Người (Đức Giê-su) đến nhà Si-môn và An-rê, cùng với Gia-cô-bê và Gio-an. 30Mẹ vợ của Si-môn nằm liệt vì cảm sốt, tức khắc họ nói với Người về bà. 31Đến gần, Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt đã rời khỏi bà và bà phục vụ họ.

 

 

III. Ba phương pháp, ba cách đặt câu hỏi

 

Phần sau sẽ trình bày mối bận tâm của ba phương pháp: “Phê bình lịch sử”, “Phân tích cấu trúc” và “Phân tích thuật chuyện”. Khi áp dụng vào một đoạn văn cụ thể, chẳng hạn Mc 1,29-31, các phương pháp khác nhau sẽ đặt ra những câu hỏi khác nhau cho bản văn.

 

     1. Phê bình lịch sử (historico-critique)

 

Phương pháp phê bình lịch sử quan tâm đến thế giới đằng sau bản văn (le monde historique derrière le texte). Mục đích của phương pháp này nhằm xây dựng lại thực tế lịch sử nhờ bản văn và thử tìm xem ý định của “tác giả thực sự” muốn nói gì. Phương pháp này xem bản văn như là một tài liệu lịch sử.

 

     Những câu hỏi đặt ra cho đoạn văn Mc 1,29-31:

 

1. Có thể nói gì về biến cố lịch sử kể lại trong bản văn?

 

2. Bản văn được viết trong hoàn cảnh lịch sử nào?

 

3. Làm thế nào truyền thống (truyền khẩu hay chữ viết) về câu chuyện này đến được với tác giả thực sự?

 

4. “Tác giả thực sự” đã hiểu bản văn như thế nào và muốn nói với “độc giả thực sự” vào những năm 60 – 70 điều gì?

 

Xem định nghĩa các thuật ngữ “tác giả thực sự”, “độc giả thực sự”, “tác giả tiềm ẩn”, “độc giả tiềm ẩn”, “người thuật chuyện”… ở mục:Khái niệm tác giả – độc giả” trong Phân tích thuật chuyện và cấu trúc, tr. 37-41.

 

     2. Phân tích cấu trúc (analyse structurale)

 

Phương pháp “phê bình lịch sử” chú ý đến những thông tin lịch sử trong bản văn, trong khi “phân tích cấu trúc” (analyse structurale) chú trọng đến chính bản văn. Phân tích cấu trúc coi trọng việc quan sát ngôn ngữ trong bản văn và cách thức xây dựng bản văn với nguyên tắc: Ý nghĩa của bản văn ở trong bản văn (không dựa vào các dữ liệu ngoài bản văn). Phân tích cấu trúc để ý đến “thế giới bản văn” (le monde du texte) và ít quan tâm đến “thế giới lịch sử” (le monde historique) đằng sau bản văn.

 

     Những câu hỏi đặt ra cho trình thuật Đức Giê-su chữa lành bà mẹ vợ của Phê-rô ở Mc 1,29-31:

 

1. Đâu là từ ngữ và các ý tưởng xuất hiện trong bản văn?

 

2. Từ ngữ và ý tưởng ấy tiến triển và nối kết với nhau như thế nào?

 

3. Bản văn được xây dựng và cấu trúc theo cách nào: Cấu trúc đồng tâm, cấu trúc song song hay cấu trúc theo ý tưởng?

 

4. Yếu tố thời gian và không gian được trình bày ra sao?

 

5. Sự chuyển đổi từ trạng thái “nằm” trên giường của bà mẹ vợ Phê-rô, đến trạng thái được Đức Giê-su “đỡ dậy”, rồi tiếp đến là hành động “đứng lên” và “phục vụ” có ý nghĩa gì?

 

6. Việc Đức Giê-su “đến gần”  và cơn sốt “ra đi” gợi lên điều gì cho độc giả?

 

7. Điều gì được nói đến, được nhấn mạnh trong bản văn, điều gì không được nói đến?

 

     3. Phân tích thuật chuyện (analyse narrative)

 

Phân tích thuật chuyện chú trọng tương tác giữa “tác giả tiềm ẩn” và “độc giả tiềm ẩn”. Người kể câu chuyện được gọi là “người thuật chuyện” (người viết câu chuyện) cho “người nghe” (người đọc bản văn). Khi kể câu chuyện, “người thuật chuyện” muốn chuyển tải một thông điệp nào đó cho người đọc qua trình thuật. Như thế, mục đích của việc đọc bản văn là hiểu được sứ điệp của bản văn.

 

     Với đoạn văn cụ thể Mc 1,29-31, câu hỏi đặt ra:

 

1. Cách thức tác giả kể chuyện dẫn đưa người đọc đến cách hiểu câu chuyện theo hướng nào?

 

2. Tác giả tiềm ẩn muốn nói với người đọc tiềm ẩn điều gì qua câu chuyện?

 

3. Điều tác giả muốn nói được chuyển tải bằng các tình tiết nào?

 

4. Trong Mc 1,29-31, các nhân vật đi vào câu chuyện ra sao? Tại sao Đức Giê-su lại xuất hiện sau cùng?

 

5. Từ việc các môn đệ báo cho Đức Giê-su biết, đến hiệu quả việc chữa lành: sự phục vụ có ý nghĩa gì?

 

Kết luận

 

Xác định mục tiêu khác nhau của các phương pháp khác nhau như trên giúp độc giả xác định hướng đi trước khi đọc bản văn Kinh Thánh. Ngược lại, chỉ cần nghe câu hỏi cũng có thể biết phần nào câu hỏi ấy thuộc loại phương pháp nào.

 

Nếu độc giả muốn tìm hiểu lịch sử thì áp dụng phương pháp “phê bình lịch sử”. Phương pháp này đạt tới thời hoàng kim vào những thập niên 1960, 1970, nhưng hiện nay đang gặp không ít khó khăn. Thực vậy, những kết luận dựa trên lịch sử thường rất phức tạp và gây tranh cãi trong chi tiết, bởi vì có nhiều lập trường khác nhau dẫn đến nhiều cách giải thích khác nhau. Trong những thập niên vừa qua, phương pháp phê bình lịch sử đã “bị đem ra đặt vấn đề”. Uỷ Ban Kinh Thánh Giáo Hoàng nhận định: “Đúng vào lúc phương pháp khoa học phổ biến nhất, tức là phương pháp ‘phê bình lịch sử’, đang được áp dụng trong khoa chú giải, kể cả chú giải công giáo, thì phương pháp này lại bị đem ra đặt vấn đề” (ỦY BAN KINH THÁNH GIÁO HOÀNG, Việc giải thích Kinh Thánh trong Giáo Hội,tr. 31).

 

Ngày nay, có nhiều cố gắng đưa Kinh Thánh trở lại mục đích ban đầu: Bản văn Kinh Thánh là một thông điệp mặc khải, nhằm giáo huấn cộng đoàn và giúp độc giả sống ý nghĩa của bản văn. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để việc đọc Kinh Thánh có khả năng nuôi dưỡng đời sống tâm linh của độc giả. Các lối tiếp cận cấu trúc và thuật chuyện có thể giúp độc giả thực hiện điều này. Hai lối tiếp cận này ngày càng được áp dụng rộng rãi trong việc học hỏi và nghiên cứu Kinh Thánh. Những kết quả nghiên cứu của “phân tích cấu trúc” và “phân tích thuật chuyện” có sức thuyết phục vì tập trung vào bản văn và lập luận dựa trên bản văn. Thay vì đi tìm lịch sử trong bản văn, xu hướng học hỏi Kinh Thánh ngày nay chú trọng đến việc đi tìm ý nghĩa của bản văn, tìm cách hiểu thông điệp mặc khải trong bản văn để được sống và được nuôi dưỡng.

 

Vào thập niêm 1980 đã xảy ra xung đột giữa các phương pháp tìm hiểu Kinh Thánh. Nhưng ngày nay, người ta thường nói đến sự bổ túc giữa các phương pháp. Mỗi phương pháp đều có điểm mạnh và điểm yếu của nó. Cần áp dụng các phương pháp cách uyển chuyển và sáng tạo. Điều quan trọng là áp dụng phương pháp thế nào để việc tìm hiểu bản văn Kinh Thánh trở thành bổ ích, hấp dẫn, phong phú và thú vị./.

 

 

 

[4] Kỹ thuật hành văn trong Tin Mừng Gio-an

 

Đọc kỹ đoạn văn Ga 4,1-43.

 

Trình bày:

Ngôn ngữ biểu tượng, nghịch lý và kỹ thuật hành văn hiểu lầm trong Tin Mừng Gio-an. Ga 4,5-15: “Khát nước hằng ngày” – “khát nước sự sống”.

 

Bài đọc thêm:

Kỹ thuật hành văn: “Ý nghĩa câu chuyện” bộc lộ qua “cách thức kể chuyện” (Lc 7,36-50).

Tác giả giao tiếp với độc giả qua câu chuyện (Tìm hiểu Tin Mừng Mác-cô).

Lối hành văn CHÂM BIẾM và HÀI HƯỚC trong Kinh Thánh.

 

Câu hỏi gợi ý:

1) Ví dụ về nghĩa biểu tượng trong Tin Mừng Gio-an.

2) Ví dụ về sự hiểu lầm trong Tin Mừng Gio-an.

3) Ví dụ về nghịch lý trong Tin Mừng Gio-an.

 

Kết thúc phần học hỏi về phương pháp đọc Kinh Thánh. Phần tiếp theo: Học hỏi Tin Mừng Gio-an.

 

Ga 4,1-43

 

1 Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an.2 (Thật ra, không phải chính Đức Giê-su làm phép rửa, nhưng là các môn đệ của Người).3 Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê.4 Do đó, Người phải băng qua Sa-ma-ri vTất cả đoạn 4,4-42 có thể chia ra như sau : 1. Nhập đề (4,4-6) ; 2. Hai phần chính yếu : a/ đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri (4,7-26), b/ đối thoại với các môn đệ ( 4,27-38) ; 3. Kết luận (4,39-42)..5 Vậy, N    gười đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se.6 Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.
     7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy : “Chị cho tôi xin chút nước uống xSau phần nhập đề (4,4-6) nói đến nơi chốn (Đức Giê-su ngồi ở bờ giếng của ông Gia-cóp ở Xy-kha miền Sa-ma-ri : 4,5-6a) và thời gian (khoảng 12 giờ trưa : 4,6b), phần I về cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri gồm hai điểm : nước hằng sống (4,7-14) và nền phụng tự mới (4,20-24). !”8 Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn.9 Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói : “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao ?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri yNgười Do-thái tỏ thái độ khinh bỉ và thù nghịch đối với người Sa-ma-ri, coi họ là một dân hỗn tạp về chủng tộc (x. 2 V 17,24tt), rối đạo (họ chỉ công nhận Ngũ Thư) và ly giáo (họ chỉ biết có đền thờ trên núi Ga-ri-dim, đối nghịch với Đền Thờ Giê-ru-sa-lem)..10 Đức Giê-su trả lời : “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị : ‘Cho tôi chút nước uống’, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống aĐiểm thứ nhất của phần I (4,7-14) đề cập đến nước hằng sống (c. 10.13-14). Có thể hiểu nước hằng sống là mặc khải hoặc giáo huấn của Đức Giê-su (Cựu Ước dùng hình ảnh nước để chỉ Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa ban sự sống : Cn 13,14 ; 18,4 ; Is 55,1.3 ; Hc 24,21 so với Ga 4,14a). Nước hằng sống cũng có thể là Thánh Thần do Đức Giê-su thông ban (1. Vài đoạn Kinh Thánh liên kết nước và Thần Khí : Is 44,3 ; Ed 36,25-26... ; Ga 7,37-39 ; Ga 4,14b so với Ga 6,63 ; 2. Cv 2,38 ; 8,20 ; 11,17 chỉ Thánh Thần. Do đó : Ga 4,10 nói đến ân huệ Thiên Chúa ban cũng chỉ Thánh Thần)..”11 Chị ấy nói : “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống ?12 Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này ? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.”13 Đức Giê-su trả lời : “Ai uống nước này, sẽ lại khát.14 Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”
     15 Người phụ nữ nói với Đức Giê-su : “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”16 Người bảo chị ấy : “Chị hãy gọi chồng chị, rồi trở lại đây.”17 Người phụ nữ đáp : “Tôi không có chồng.” Đức Giê-su bảo : “Chị nói : ‘Tôi không có chồng’ là phải,18 vì chị đã năm đời chồng rồi, và người hiện đang sống với chị không phải là chồng chị. Chị đã nói đúng.”19 Người phụ nữ nói với Người : “Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ...20 Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này ; còn các ông lại bảo : Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.”21 Đức Giê-su phán : “Này chị, hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem.22 Các người thờ Đấng các người không biết ; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái.23 Nhưng giờ đã đến –và chính là lúc này đây– giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật bNội dung của điểm thứ hai thuộc phần I là sự thờ phượng mới : thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật (c. 23-24). Sự thờ phượng trong thần khí là sự thờ phượng mới của những ai lãnh nhận Thần Khí nâng họ lên khỏi lãnh vực xác thịt, giúp họ trở nên con Thiên Chúa, làm cho họ có khả năng công nhận Thiên Chúa là Cha. Sự thờ phượng đó còn được gọi là trong sự thật, vì sự thờ phượng đó thực sự phù hợp với ý của Thiên Chúa do Đức Giê-su mặc khải, hoặc phù hợp với mặc khải của Đức Giê-su về mối tương quan thực thụ giữa Thiên Chúa và nhân loại., vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế 24 Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.”25 Người phụ nữ thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.”26 Đức Giê-su nói : “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.”
     27 Vừa lúc đó, các môn đệ trở về cPhần II gồm cc. 27-38 nói về cuộc đối thoại với các môn đệ. Lương thực của Đức Giê-su là thi hành ý muốn của Thiên Chúa : đó là sứ mạng của Người (c.34). Lời quả quyết đó dẫn cách tự nhiên tới mùa gặt (c.35) là thành quả của sứ mạng đó, tức là những người Sa-ma-ri đang đến với Người. Ga 4,35 chắc là một câu tục ngữ. Câu tục ngữ này có nghĩa sau đây : mùa gặt (giữa tháng 4) còn xa mùa gieo vãi (tháng 11 – tháng 12) ; phải nhẫn nại đợi chờ. Nhưng điều đó không áp dụng được ở đây : mùa gặt cánh chung đã bắt đầu ; người Sa-ma-ri đến với Đức Giê-su (cc. 30 và 40) là những hoa quả đầu tiên. Câu tục ngữ thứ hai (4,37) và câu áp dụng (4,38) cho thấy : các môn đệ gặt hái những gì người khác đã gieo. Người khác là tất cả những người đi trước đã lo công việc thừa sai, cách riêng Đức Giê-su.. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ. Tuy thế, không ai dám hỏi : “Thầy cần gì vậy ?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy ?”28 Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với người ta :29 “Đến mà xem : có một người đã nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?”30 Họ ra khỏi thành và đến gặp Người.
     31 Trong khi đó, các môn đệ thưa với Người rằng : “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa.”32 Người nói với các ông : “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết.”

33 Các môn đệ mới hỏi nhau : “Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng ?”34 Đức Giê-su nói với các ông : “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.35 Nào anh em chẳng nói : Còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng này, Thầy bảo anh em : Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái !36 Ai gặt thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để được sống muôn đời, và như thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt đều hớn hở vui mừng.37 Thật vậy, câu tục ngữ ‘kẻ này gieo, người kia gặt’ quả là đúng !38 Thầy sai anh em đi gặt những gì chính anh em đã không phải vất vả làm ra. Người khác đã làm lụng vất vả ; còn anh em, anh em được vào hưởng kết quả công lao của họ.”
     39 Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng : “Ông ấy nói với tôi mọi việc tôi đã làm.”40 Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày.41 Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa.42 Họ bảo người phụ nữ : “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian dTước hiệu này làm nổi bật tính phổ cập của ơn cứu độ (chỉ có ở đây và 1 Ga 4,14). Tính phổ cập này là một trong những đặc điểm trong các tác phẩm Gio-an (x. 1,29 ; 3,16 ; 11,52 ; 1 Ga 2,2)..”

Ga 4,5-15: “Khát nước hằng ngày” – “khát nước sự sống”. Ngôn ngữ biểu tượng, nghịch lý và kỹ thuật hành văn hiểu lầm trong Tin Mừng Gio-an

 

 

 

 

Nội dung

 

I. Bản văn Ga 4,5-15

II. Dẫn nhập

III. Phân tích

    1. Ngôn ngữ biểu tượng và nghịch lý

    2. Kỹ thuật hành văn dị nghĩa, gây hiểu lầm

    3. Cuộc gặp gỡ, đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản

IV. Kết luận

 

I. Bản văn Ga 4,5-15 (Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA THƯ)

 

5 Vậy Người [Đức Giê-su] đến một thành Sa-ma-ri, gọi là Xy-kha, gần thửa đất mà Gia-cóp đã cho Giu-se, con của ông ấy. 6 Ở đó có giếng Gia-cóp. Đức Giê-su vất vả vì đi đường nên ngồi xuống bờ giếng. Lúc đó khoảng giờ thứ sáu [12 giờ trưa].

 

7 Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với chị ấy: “Cho Tôi uống với.” 8 Vì các môn đệ của Người đã đi vào thành để mua thức ăn. 9 Người phụ nữ Sa-ma-ri nói với Người: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” Vì người Do Thái không giao thiệp với người Sa-ma-ri.

 

10 Đức Giê-su trả lời và nói với chị ấy: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người nói với chị: ‘Cho Tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị nước sự sống.” 11 [Chị ấy] nói với Người: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu. Vậy, Ông có nước sự sống từ đâu? 12 Chẳng lẽ Ông lớn hơn cha của chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này, chính người đã uống nơi giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của người nữa?”

 

13 Đức Giê-su trả lời và nói với chị ấy: “Bất kỳ ai uống nước này sẽ lại khát. 14 Nhưng ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời.” 15 Người phụ nữ nói với Người: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây múc nước.”

 

II. Dẫn nhập

 

Đoạn văn Ga 4,5-15 thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp vào lúc giữa trưa, khi ấy Đức Giê-su vất vả vì đi đường nên ngồi xuống bờ giếng (4,6). Đoạn Tin Mừng này vừa là ví dụ điển hình của việc tin vào Đức Giê-su, nghĩa là dám từ bỏ con đường mình đang đi để tuyên xưng niềm tin vào Người, vừa là mặc khải về căn tính của Đức Giê-su một cách nghịch lý: Người có nước sự sống lại đang khát nước và phải xin nước để uống.

 

Câu chuyện về người phụ nữ Sa-ma-ri chỉ có trong Tin Mừng Gio-an và được trình bày cách độc đáo với kiểu hành văn đặc thù của Tin Mừng Gio-an, phần sau sẽ phân tích ba đề tài trong đoạn văn Ga 4,5-15:

(1) Ngôn ngữ biểu tượng và nghịch lý: “Khát nước hằng ngày” và “khát nước sự sống”.

(2) Kỹ thuật hành văn dị nghĩa, gây hiểu lầm, nhằm giúp độc giả hiểu đúng mặc khải.

(3) Cuộc gặp gỡ và đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản như: Tôn giáo, phái tính và nơi thờ phượng. Đây là cuộc gặp gỡ có khả năng làm nẩy sinh sự đón nhận lẫn nhau và dẫn đến sự sống đích thực, sự thờ phượng đích thực và niềm tin đích thực.

 

III. Phân tích

 

1. Ngôn ngữ biểu tượng và nghịch lý

 

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp mô tả sự tìm kiếm của hai con người. Đức Giê-su là người xin nước uống vì Người vất vả đi đường lúc giữa trưa. Người nói với người phụ nữ: “Xin chị cho Tôi nước uống” (4,7). Còn người phụ nữ Sa-ma-ri là người thường xuyên vất vả tới giếng múc nước nên cũng xin nước uống. Chị ấy nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy [nước sự sống], để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước” (4,15). Câu chuyện về “khát nước” và “lấy nước” bên bờ giếng mở đầu và kết thúc bằng hai lời xin: Người có “nước hằng sống” (dịch sát: “nước sự sống”) thì xin “nước hằng ngày”. Còn người có gầu để múc nước giếng, nghĩa là có “nước hằng ngày” lại xin “nước sự sống”.

 

Câu chuyện nói đến hai thứ nước và hai thứ khát. Đức Giê-su nói về sự khác biệt giữa “nước giếng” và “nước sự sống” như sau: “13 Bất kỳ ai uống nước này [nước giếng] sẽ lại khát. 14 Nhưng ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát. Nhưng nước mà Tôi sẽ ban cho người ấy sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời” (4,13-14). “Nước hằng ngày” là thứ nước uống vào sẽ lại khát, còn “nước sự sống” là thứ nước uống vào sẽ không bao giờ khát nữa.

 

Như thế trong cuộc đối thoại, danh từ “nước” (hudôr) và động từ “khát” (dipsaô) vừa có nghĩa đen, vừa có nghĩa biểu tượng. Nghĩa đen là nước uống hằng ngày, nghĩa biểu tượng là “nước đích thực” mà Đức Giê-su ban tặng cho những ai tin vào Người. Để phân biệt, Đức Giê-su gọi thứ nước này là “nước sự sống” (hudôr zôn). “Khát nước” theo nghĩa đen là khát nước uống hằng ngày. “Khát” theo nghĩa biểu tượng là “khát nước sự sống”, nghĩa là khao khát sự thật, khát được biết ai là đấng cứu độ trần gian, khát tâm linh, khát sự thờ phượng đích thực, khao khát gặp được ai đó đáng tin và để tin. Như thế, nghĩa biểu tượng của “nước” và “khát nước” nhằm trình bày mặc khải. Tuy nhiên trong mạch văn, nghĩa đen của việc “khát nước” cũng mặc khải về căn tính của Đức Giê-su: Đức Giê-su là con người như bao người khác và nhân tính của Đức Giê-su được tỏ lộ qua kiểu hành văn tương phản, hài hước và nghịch lý: Người tự cho mình có “nước sự sống”, uống vào thì đời đời sẽ không khát, nhưng người ấy lại đang khát và phải xin người phụ nữ Sa-ma-ri nước để uống: “Chị cho Tôi uống với” (4,7). Theo mạch văn, nước hằng ngày quan trọng, vì chính Đức Giê-su đã mệt mỏi vì đi đường và Người xin nước uống. Như thế, nhu cầu về nước hằng ngày diễn tả thân phận làm người của Đức Giê-su. Người là con người như mọi người, sống trọn vẹn thân phận làm người. Người cũng đói, khát, vất vả thi hành sứ vụ như bao người khác.

 

Đồng thời bản văn cho phép hiểu đói, khát, vất vả theo nghĩa biểu tượng. Đức Giê-su khao khát rao giảng Tin Mừng. Người chấp nhận vất vả để dẫn đưa những con chiên lạc về cùng một ràn chiên. Nghĩa biểu tượng của động từ “khát” được gợi ý trong cách kể chuyện. Thực vậy, điều nói rõ trong bản văn là Đức Giê-su khát nước và Người xin nước để uống, nhưng trình thuật không kể việc Đức Giê-su uống nước mà đi thẳng vào trọng tâm câu chuyện là mặc khải của Đức Giê-su về căn tính và sứ vụ của Người. Khi người phụ nữ hỏi: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nướcuống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” (4,9), Đức Giê-su không trả lời câu hỏi này mà đi thẳng vào điều Người muốn mặc khải cho chị: “Nếu chị nhận biết ân huệ của Thiên Chúa và ai là người nói với chị: ‘Cho Tôi uống với’, hẳn chị đã xin người ấy và người ấy đã ban cho chị nước sự sống” (4,10).

 

Chi tiết Đức Giê-su xin nước uống vừa là mặc khải về nhân tính của Đức Giê-su, vừa đề cao vai trò của người phụ nữ. Đức Giê-su đang cần đến sự giúp đỡ của chị, đồng thời Người đề nghị với chị thứ nước Người có khả năng ban cho chị: “Nước sự sống”. Đức Giê-su tôn trọng quá khứ, hiện tại và tương lai của chị, Người mặc khải để chị biết Người là ai và chị được tự do lựa chọn con đường của mình, lựa chọn tin vào ai và tin vào điều gì.

 

2. Kỹ thuật hành văn dị nghĩa, gây hiểu lầm

 

Hành trình tìm kiếm của người phụ nữ Sa-ma-ri được trình bày qua kỹ thuật hành văn gây hiểu lầm. Trước hết chị hiểu lầm “nước giếng” là “nước sự sống”, vì chị nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu. Vậy, Ông có nước sự sống từ đâu?” (4,12). Trong mạch văn, quà tặng của Đức Giê-su là “nước sự sống”, dịch sát: “nước sống” (hudôr zôn) theo nghĩa nước sống động, sinh động (living water) chứ không phải nước tù trong ao. Người phụ nữ đã hiểu “nước sống” theo nghĩa đen. Thứ đến, chị hiểu lầm về “khát nước giếng” và “khát nước sự sống” khi chị nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, xin ông cho Tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây múc nước” (4,15).

 

Trao đổi về đề tài “nước uống” và “khát nước” kết thúc ở đây (4,15) vì xem ra chị ấy hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của “nước sự sống” như Đức Giê-su muốn. Để tiếp tục cuộc đối thoại, Đức Giê-su quyết định thay đổi đề tài, Người với chị: “Hãy đi gọi chồng của chị, rồi trở lại đây” (4,16). Mục đích kỹ thuật hành văn gây hiểu lầm trên đây muốn nói với độc giả rằng: Đừng nghĩ và đừng hiểu sai như nhân vật trong câu chuyện. Nói cách khác, nhờ sự hiểu lầm của người phụ nữ Sa-ma-ri trong trình thuật mà độc giả có cơ may hiểu đúng và phân biệt rõ nghĩa đen và nghĩa biểu tượng của “nước giếng” và “nước sự sống”. Nhờ đó độc giả hiểu tại sao Đức Giê-su có “nước sự sống” mà phải “xin nước giếng” để uống.

 

Đến cuối trình thuật (4,39-42), độc giả sẽ nhận ra rằng không phải dùng gầu để múc “nước sự sống” như người phụ nữ Sa-ma-ri đã nghĩ (4,11), nhưng để có nước sự sống, con người cần đón nhận và tin vào Đức Giê-su. Câu chuyện kết thúc khi những người Sa-ma-ri trong thành Xy-kha đến gặp Đức Giê-su và họ nói với người phụ nữ: “Không còn phải vì lời của chị mà chúng tôi tin. Vì chính chúng tôi đã nghe và đã biết rằng Người thật là Đấng cứu độ thế gian.” Như thế, “TIN”, “NGHE”, “BIẾT” Đức Giê-su và tuyên xưng Người là “ĐẤNG CỨU ĐỘ TRẦN GIAN” thì có “nước sự sống” nơi mình. Đó là thứ nước “sẽ trở nên nơi người ấy một mạch nước vọt lên sự sống đời đời” (4,14).

 

3. Cuộc gặp gỡ, đối thoại vượt trên mọi thứ rào cản

 

Ý nghĩa thứ ba của trình thuật là cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri đã vượt trên mọi thứ rào cản. Câu chuyện mở đầu với sự ngạc nhiên của người phụ nữ: “Làm sao Ông là người Do Thái lại xin tôi nước uống, mà tôi là một phụ nữ Sa-ma-ri?” (4,9). Câu hỏi này cho thấy khoảng cách giữa hai bên, cụ thể là sự khác biệt về nguồn gốc và niềm tin (Do Thái – Sa-ma-ri), rào cản phái tính (nam – nữ), khác nhau về nơi thờ phượng (Giê-ru-sa-lem – Gơ-ri-dim). Tuy vậy, câu chuyện kết thúc trong niềm tin và đón nhận lẫn nhau. Nhờ lời loan báo của người phụ nữ, những người Sa-ma-ri trong thành Xy-kha đến với Đức Giê-su và “xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày” (4,40). Cuộc gặp gỡ kết thúc tốt đẹp khi người thuật chuyện cho biết kết quả việc Đức Giê-su ở lại với họ như sau: “Nhiều người hơn nữa đã tin, nhờ lời của Người” (4,41). Cuộc gặp gỡ mở đầu với nhiều trở ngại, nhưng Đức Giê-su đã vượt trên mọi thứ rào cản để dẫn người nghe đến lựa chọn đón nhận lời mặc khải và tin vào Người.

 

IV. Kết luận

 

Có thể rút ra từ Ga 4,5-15 ba bài học: (1) Ngôn ngữ và văn chương Gio-an. (2) Hành trình tìm kiếm nước sự sống. (3) Cách thức gặp gỡ và đối thoại đích thực.

 

(1) Bài học thứ nhất liên quan đến ngôn ngữ và văn chương Gio-an. Trong Tin Mừng Gio-an, tác giả thường dùng ngôn ngữ biểu tượng, dị nghĩa và gây hiểu lầm. Trong Ga 4,7-15, danh từ “nước” và động từ “khát” vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa biểu tượng và cả hai nghĩa đều quan trọng. Các từ dị nghĩa trong bản văn thường làm cho người nghe hiểu lầm. Đức Giê-su nói theo nghĩa biểu tượng thì người nghe hiểu theo nghĩa đen. Đây là kỹ thuật hành văn nhằm giúp độc giả hiểu đúng lời Đức Giê-su, nghĩa là nhận ra nhân vật trong câu chuyện hiểu sai, hiểu lầm lời của Người.

 

Tin Mừng Gio-an thường trình bày đề tài cách nghịch lý. Chẳng hạn người ban nước sự sống lại phải xin nước uống. Kiểu hành văn này làm lộ ra căn tính của Đức Giê-su: Người là Con Thiên Chúa (ban nước sự sống) và Người là con người (khát nước và xin nước uống). Sự nghịch lý này sẽ đạt đến đỉnh cao trên thập giá: Chết trên thập giá là tôn vinh.

 

(2) Bài học thứ hai là hành trình tìm kiếm “nước sự sống”. Câu chuyện mời gọi độc giả hãy coi trọng cả hai thứ nước: “nước sự sống” và “nước hằng ngày”. Đừng chỉ chú trọng tìm “nước sự sống” mà xem nhẹ công việc làm ăn để “có nước hằng ngày”. Cách hiểu của người phụ nữ Sa-ma-ri: “Thưa Ông, xin Ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây múc nước” là đã hiểu sai về “nước sự sống”. Để có “nước sự sống” con người cần không ngừng khao khát đối thoại với Đức Giê-su và hiểu đúng lời mặc khải của Người. Từ đó, “đến với”, “tin” và “ở lại” với Người. Đó là cách con người đón nhận “nước sự sống”, thứ nước sẽ làm thoả mãn mọi khát vọng của con người.

 

(3) Bài học thứ ba là cách thức gặp gỡ và đối thoại với người khác. Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri đã diễn ra ở một nơi cụ thể: giếng Gia-cóp, gần thành Xy-kha miền Sa-ma-ri. Đồng thời trình thuật mời gọi độc giả áp dụng cuộc gặp gỡ bên bờ giếng Gia-cóp vào những cuộc gặp gỡ hằng ngày trong hoàn cảnh cụ thể của mỗi người. Đó là những cuộc gặp gỡ có khả năng giải thoát khỏi mọi hình thức ngăn cách và khác biệt về niềm tin, giới tính hay nơi thờ phượng. Từ đó làm nẩy sinh đối thoại đích thực trong sự chia sẻ và tôn trọng lẫn nhau. Nếu như đối thoại và gặp gỡ dẫn đến sự hiểu biết “Đức Giê-su là ai” và “nước sự sống là gì” thì độc giả đang sống Lời Chúa và đang làm sống lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Sa-ma-ri trong thế giới hôm nay./.

 

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2013.

Giuse Lê Minh Thông, O.P.

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/03/ga-45-15-khat-nuoc-hang-ngay-khat-nuoc.html

 

Ga 4,4. Tại sao Đức Giê-su phải băng qua Samari?

 

 [The article in English]

Jn 4:4. Why did Jesus have to pass through Samaria?

 

Tác giả: Giuse LÊ MINH THÔNGO.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ 
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Ngày 23 tháng 09 năm 2012

 

 

Nội dung

 

I. Dẫn nhập

II. Đi ngang qua Samari và đi dọc theo thung lũng Giođan

1. Tương quan giữa người Do Thái và người Samari

2. Lý do khiến Đức Giê-su đi ngang qua Samari

III. Cách dùng động từ “dei” (phải) trong Tin Mừng Gio-an 

1. Sự cần thiết dành cho thính giả và độc giả

2. Động từ “dei” (phải) mô tả căn tính của Đức Giê-su

3. Sự cần thiết liên quan đến sứ vụ

IV. Kết luận

 

 

I. Dẫn nhập

 

Bài viết trước đã bàn đến “Nơi chốn trong Ga 4,1-43. Samari, Sychar, giếng Giacóp, núi Gerizim”, bài viết này sẽ tập trung vào Ga 4,4: “Người [Đức Giê-su] phải băng qua Sa-ma-ri.” Tại sao Đức Giê-su phải băng qua Samari? Trả lời câu hỏi này có thể giúp hiểu ý nghĩa toàn bộ trình thuật Ga 4,1-43. Trong bài viết này chúng tôi dùng cách viết tên riêng như trong bài viết trước (không dùng gạch ngang).

 

Dựa trên địa dư vùng đất Palestin và tương quan giữa người Do Thái và người Samari, phần nội dung sẽ trình bày hai cách để đi từ Giuđê đến Galilê và ngược lại: (1) Đi ngang qua Samari, hay (2) Đi dọc theo thung lũng sông Giođan (xem thêm các bản đồ vùngPalestin trong bài viết trước). Kế đến bài viết sẽ trình bày cách dùng động từ Hy Lạp “dei” (phải) trong Tin Mừng Gio-an. Động từ này có thể có nghĩa thần học, và ở Ga 4,4 người thuật chuyện có thể diễn tả sự cần thiết (phải) liên quan đến sứ vụ của Đức Giê-su tại Samari. Các trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong: Bản văn Gio-an, Tin Mừng và Ba thư Hy Lạp – Việt. Một số trích dẫn Cựu Ước lấy trong bản dịch của NPD/CGKPV, ấn bản 2011.

 

II. Đi ngang qua Samari và đi dọc theo thung lũng Giođan

 

Vào thời Đức Giê-su, tình trạng vùng Samari ảnh hưởng đến việc đi lại của người Do Thái từ Giuđê đến Galilê và ngược lại. Mục này sẽ trình bày hai ý: (1) Tương quan giữa người Do Thái và người Samari. (2) Tìm hiểu lý do khiến Đức Giê-su lựa chọn đi ngang qua Samari.

 

1. Tương quan giữa người Do Thái và người Samari

 

Vào thời Đức Giê-su, người Do Thái sống ở Giuđê và Galilê thường tránh đi vào vùng đất Samari, bởi vì tương quan giữa người Do Thái và người Samari không mấy tốt đẹp. Các sách Tin Mừng cũng cho thấy bầu khí nghi kỵ, chống đối, và đôi lúc xảy ra xung đột. Chẳng hạn, Tin Mừng Lu-ca thuật lại câu chuyện Đức Giê-su và các môn đệ từ Galilê đi lên Giêrusalem qua ngã Samari, nhưng dân làng Samari đã không tiếp đón. Người thuật chuyện kể ở Lc 9,51-53: “51 Khi đã tới ngày Đức Giê-su được rước lên trời, Người nhất quyết đi lên Giê-ru-sa-lem. 52 Người sai mấy sứ giả đi trước. Họ lên đường và vào một làng người Sa-ma-ri để chuẩn bị cho Người đến. 53 Nhưng dân làng không đón tiếp Người, vì Người đang đi về hướng Giê-ru-sa-lem.”

 

Ngược lại, người Do Thái xem người Samari là dân không còn dòng máu Do Thái chính thống nữa, nguồn gốc của người Samari là do pha trộn giữa dân Ítraen và dân ngoại. Trình trạng này xảy ra sau khi thành Samari, thủ đô vương quốc Ítraen ở miền Bắc bị sụp đổ năm 722 BCE (Before the Common Era, Before the Current Era hay Before the Christian Era). Một số dân cư thành Samari và các vùng lân cận bị Sargon II, vua đế quốc Assyri, đưa đi lưu đày. Những người dân Ítraen còn lại phải sống chung với các dân ngoại từ các nơi khác, do Sargon II mang đến. Bởi vì lúc ấy vùng đất Samari đã trở thành thuộc địa của Assyri. Dần dần người Ítraen ở lại Samari pha trộn với dân ngoại, chịu ảnh hưởng tập tục và tôn giáo của họ, nên không thuần chủng là dân Ítraen nữa.

 

Sách Các Vua quyển thứ hai thuật lại tình trạng vương quốc Ítraen và lý do vương quốc này sụp đổ ở 2V 17,22-25a: “22 Con cái Ít-ra-en đã bắt chước vua mà phạm mọi tội vua đã phạm, họ không dứt bỏ các tội đó, 23 đến nỗi ĐỨC CHÚA đẩy Ít-ra-en đi cho khuất nhan Người, như Người đã dùng mọi ngôn sứ, tôi trung của Người, mà phán. Ít-ra-en đã bị đày biệt xứ sang Át-sua cho đến ngày nay.24 Vua Át-sua đã đưa người từ Ba-by-lon, Cu-tha, A-va, Kha-mát và Xơ-phác-va-gim đến định cư ở các thành xứ Sa-ma-ri, thế vào chỗ con cái Ít-ra-en. Họ chiếm Sa-ma-ri và ở trong các thành của xứ này. 25 Ban đầu, khi mới định cư ở đó, họ không kính sợ ĐỨC CHÚA.”

 

Sự kỳ thị và xung đột giữa người Do Thái và Samari trở nên mạnh mẽ hơn khi thời lưu đày chấm dứt (538 BCE). Sau thời lưu đày, Những người Do Thái hồi hương về Giêrusalem tổ chức xây lại tường thành và Đền Thờ Giêrusalem (520-515 BCE). Người Samari muốn góp phần xây lại Giêrusalem nhưng không được người Do Thái chấp nhận. Để đáp trả, người Samari đã tìm cơ hội để tố cáo người Do Thái trước các vua Ba Tư. Người Samari đã xây đền thờ trên núi Gerizim để thờ phượng Đức Chúa. Điều này đào sâu thêm sự chia rẽ giữa người Samari và người Do Thái.

 

Ét-ra thuật lại xung đột giữa dân địa phương và người Do Thái hồi hương về việc xây dựng lại Đền Thờ ở Er 4,1-5: “1 Khi nghe tin là các người lưu đày trở về đang xây một Đền Thờ kính ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, 2 thì những kẻ thù của Giu-đa và Ben-gia-min đến gặp ông Dơ-rúp-ba-ven, và những người đứng đầu các gia tộc, mà nói: ‘Chúng tôi muốn được cùng xây với các ông, bởi cũng như các ông, chúng tôi tìm kiếm Thiên Chúa của các ông, và dâng lễ tế kính Người, từ ngày Ê-xa-khát-đôn, vua Át-sua, đem chúng tôi lên đây.’ 3 Ông Dơ-rúp-ba-ven, ông Giê-su-a và những người khác, là những người đứng đầu các gia tộc Ít-ra-en, bảo họ: ‘Việc xây Nhà cho Thiên Chúa chúng tôi không phải là việc chung của các ông và chúng tôi, vì chỉ có chúng tôi sẽ xây cho ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-ra-en, theo lệnh vua Ky-rô, vua Ba-tư, đã ban cho chúng tôi.’ 4 Khi đó, dân trong xứ bắt đầu làm cho dân Giu-đa bủn rủn tay chân và sợ hãi, để họ không xây cất nữa. 5Chúng mua chuộc các cố vấn, để làm hỏng ý định của dân Giu-đa trong suốt thời vua Ky-rô, vua Ba-tư, mãi cho đến triều vua Đa-ri-ô, vua Ba-tư.” Trong câu chuyện xung đột trên, các cụm từ “kẻ thù của Giu-đa và Ben-gia-min” (Er 4,1) và “dân trong xứ” (Er 4,4) là những người sống trên đất Palestin khi dân Giuđa bị đưa đi lưu đày, trong số đó có người Samari.

 

Vào thời Đức Giê-su, khi người Do Thái muốn đi từ Giuđê về Galilê hay từ Galilê lên Giêrusalem họ thường không đi ngang qua vùng Samari mà đi vòng dọc theo thung lũng sông Giođan, rồi từ Giêricô đi lên Giêrusalem (xem bản đồ ở trên). “Phải cộng thêm khoảng 25 dặm (40 km) vào hành trình, nhưng đáng làm, nếu muốn tránh đi ngang qua Samari” (WALKER, In the Steps of Jesus, 2006, p. 82). Josephus cũng cho biết  con đường ngắn nhất để đi từ Giuđê đến Galilê là đi ngang qua Samari. Josephus viết: “Đó là điều thực sự cần thiết cho những ai muốn đi nhanh [tới Giêrusalem] thì đi ngang qua vùng đất đó [Samari], bởi vì đi theo đường này, bạn có thể mất ba ngày đi đường từ Galilê tới Giêrusalem” (Josephus Life,52:269). Trong thực tế, người Do Thái thường tránh đi qua miền Samari.

 

2. Lý do khiến Đức Giê-su đi ngang qua Samari

 

Khi người thuật chuyện cho biết: Đức Giê-su phải qua ngang qua Samari (Ga 4,4) để đến Galilê, phải chăng Đức Giê-su đã đi theo con đường ngắn hơn? Hay Đức Giê-su vội vàng đi Galilê nên phải chọn đi ngang qua Samari? Có hai chi tiết trong câu chuyện cho thấy Đức Giê-su không vội về Galilê, và lựa chọn đi Galilê bằng cách băng qua Samari không phải là con đường ngắn, nếu Đức Giê-su đang ở gần sông Giođan.

 

Trước hết, Đức Giê-su không vội đến Galilê, bởi vì khi những người Samari xin Đức Giê-su ở lại với họ, thì Người đã ở lại thành Sychar hai ngày (4,40). Chi tiết thứ hai trong bối cảnh văn chương cho thấy Đức Giê-su đang ở gần nơi Gio-an Tẩy Giả làm phép rửa. Thực vậy, người thuật chuyện cho biết ở 3,22-23: “22 Sau những điều đó, Đức Giê-su và các môn đệ của Người đi vào miền đất Giu-đê, Người ở lại nơi ấy với các ông và làm phép rửa. 23 Còn Gio-an cũng đang làm phép rửa ở Ê-nôn, gần Sa-lim, vì ở đó có nhiều nước, và người ta tuôn đến chịu phép rửa.” Việc các môn đệ Đức Giê-su làm phép rửa được thuật lại đầu chương 4: “1 Vậy khi Đức Giê-su biết những người Pha-ri-sêu nghe rằng: Đức Giê-su thâu nạp nhiều môn đệ và làm phép rửa nhiều hơn Gio-an 2 – thực ra, chính Đức Giê-su không làm phép rửa, nhưng là các môn đệ của Người –, 3 Người rời bỏ Giu-đê và lại đi đến Ga-li-lê” (4,1-3). Như thế, theo mạch văn Đức Giê-su đang ở Giuđê và gần sông Giođan. Từ thung lũng sông Giođan, con đường ngắn nhất để đi Galilê là dọc theo sông Giođan đi về phía Bắc ngang qua Bethshan. Trong trường hợp này, đi Galilê qua ngã Samari là đi đường vòng và xa hơn con đường đi theo hướng Bethshan để đến Galilê (xem các địa danh trên đây nơi các bản đồ trong bài viết “Nơi chốn trong Ga 4,1-43”). Phần quan sát cách dùng động từ Hy Lạp “dei” (phải) trong phần tiếp theo có thể giúp độc giả hiểu tại sao Đức Giê-su phải đi qua Samari (4,4).

 

III. Cách dùng động từ “dei” (phải) trong Tin Mừng Gio-an 

 

Trong Tin Mừng thứ tư, người thuật chuyện dùng 10 lần động từ Hy Lạp “dei” (phải) ở các nơi: 3,7.14.30; 4,4.20.24; 9,4; 10,16; 12,34; 20,9. Ý nghĩa của động từ này có thể xếp thành ba nhóm. (1) Động từ “dei” (phải) mô tả sự cần thiết dành cho thính giả và độc giả (4 lần: 3,7.30; 4,20.24); (2) Động từ “dei” (phải) trình bày căn tính của Đức Giê-su (3 lần: 3,14; 12,34; 20,9); (3) Động từ “dei” (phải) diễn tả sự cần thiết liên quan đến sứ vụ của Đức Giê-su và của các môn đệ (3 lần: 4,4; 9,4; 10,16). Dưới đây là chi tiết cách dùng động từ “dei” trong ba nhóm trên.

 

1. Sự cần thiết dành cho thính giả và độc giả

 

Có hai cấp độ thính giả trong bản văn. Cấp độ thứ nhất là các nhân vật trong câu chuyện. Chẳng hạn, những người nghe Đức Giê-su trong trình thuật Ga 4,1-43 là người phụ nữ Samari, các môn đệ và dân thành Sychar. Cấp độ thính giả thứ hai là độc giả sách Tin Mừng qua mọi thời đại, bởi vì sách Tin Mừng nói với tất cả những ai đọc bản văn. Nghĩa là người thuật chuyện kể những câu chuyện trong sách Tin Mừng cho độc giả, và muốn nói với độc giả điều gì đó qua câu chuyện.

 

Ở cấp độ thứ nhất (nhân vật trong câu chuyện), Đức Giê-su nói với Nicôđêmô: “Ông đừng ngạc nhiên vì Tôi đã nói với ông: ‘Các ông cần phải (dei) được sinh ra một lần nữa’” (3,7). “Được sinh ra một lần nữa”, hay “được sinh ra bởi trên” là điều cần thiết phải xảy ra để có thể “thấy” hay “vào” vương quốc Thiên Chúa (3,3.5). Ở Ga 4,20, người phụ nữ Samari nói với Đức Giê-su: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng ở núi này; còn các ông, các ông nói rằng: ở Giê-ru-sa-lem mới là nơi phải (dei) thờ phượng” (4,20). Đức Giê-su trả lời chị ấy: “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Ngườiphải (dei) thờ phượng trong thần khí và sự thật” (4,24). Động từ “dei” (phải) ở 4,20.24 diễn tả sự cần thiết tâm linh và thần học trong cách thức thờ phượng Chúa Cha. Đối với Gioan Tẩy Giả, nguyên tắc sống của ông ấy là “Đấng ấy [Đức Giê-su] phải lớn lên, còn thầy phải suy giảm” (3,30).

 

Ở cấp độ thứ hai (tác giả – độc giả), những lời mặc khải của Đức Giê-su trong trình thuật cũng là những lời người thuật chuyện nhắn gửi đến người đọc. Bản văn Tin Mừng mời gọi người môn đệ qua mọi thời đại, đón nhận và sống giáo huấn của Đức Giê-su trong Tin Mừng, bằng cách dùng động từ “dei” (phải). Trình thuật đối thoại giữa Đức Giê-su và Nicôđêmô mời gọi độc giả “sinh ra bởi trên”, “sinh ra một lần nữa” (3,3.7), “sinh ra bởi nước và Thần Khí” (3,5). Tương tự như thế, trình thuật Đức Giê-su gặp gỡ người phụ nữ Samari đề nghị với độc giả một cách thức thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ, đó là “Thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật” (4,23). Cũng giống như Gio-an Tẩy Giả, người thuật chuyện mời gọi độc giả lựa chọn cho mình nguyên tắc sống: “Đấng ấy [Đức Giê-su] phải lớn lên, còn tôi phải suy giảm” (3,30). Tóm lại, có 4 lần trong Tin Mừng Gio-an (3,7.30; 4,20.24) động từ “dei” (phải) trình bày những điều cần thiết cho thính giả thời Đức Giê-su và đó cũng là những điều cần thiết cho độc giả qua mọi thời đại.

 

2. Động từ “dei” (phải) mô tả căn tính của Đức Giê-su

 

Nhóm thứ hai trong cách dùng động từ “dei” (phải) trình bày căn tính identity) của Đức Giê-su. Đức Giê-su nói với Nicôđêmô ở 3,14-15: “14 Như Mô-sê đã giương cao con rắn trong hoang mạc, Con Người phải (dei) được giương cao như vậy, 15 để mọi kẻ tin thì có sự sống đời đời trong Người.” Đức Giê-su đồng hoá mình với “Con Người” (the Son of Man) và Người sẽ kết thúc cuộc đời giống như con rắn trong hoang mạc, được nói đến trong sách Dân Số (Ds 21,4-9). Như con rắn được giương cao trong hoang mạc để những ai bị rắn cắn, nhìn lên đó thì được sống, Đức Giê-su cũng sẽ được giương cao trên thập giá, qua đó Người ban sự sống đời đời cho người tin. Đây là điều nghịch lý và là mầu nhiệm cao cả. Thực vậy, tại sao phải chết để ban sự sống đời đời? Tại sao người chết lại có thể ban sự sống? Ở 12,34, đám đông đã không biết Đức Giê-su là ai, vì thế họ đã hỏi Người: “Chúng tôi đã nghe trong sách Luật rằng: ‘Đấng Ki-tô ở lại mãi mãi’, thế sao Ông lại nói: ‘Con Người phải (dei) được giương cao?’ Con Người đó là ai?” Hai lần động từ “dei” (phải) trên đây trình bày sự nghịch lý và mầu nhiệm về căn tính của Đức Giê-su: Người phải được giương cao trên thập giá để nhân loại được sống.

 

Trong Tin Mừng Gio-an, động từ “dei” (phải) còn mô tả sự sống lại của Đức Giê-su. Trước khi thấy Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, người thuật chuyện nói về sự không biết của các môn đệ như sau: “Thực ra, các ông chưa hiểu theo Kinh Thánh là Người phải (dei) trỗi dậy từ giữa những kẻ chết” (20,9). Trong câu này, động từ “dei” (phải) khẳng định thần tính của Đức Giê-su. Người sẽ chết và Người sẽ sống lại từ cõi chết. Với biến cố nền tảng: Thương Khó – Phục Sinh của Đức Giê-su, Tôma đã tuyên xưng lòng tin đích thực vào Đức Giê-su Phục Sinh: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (20,28). Đây là những danh xưng của Thiên Chúa được áp dụng cho Đức Giê-su, và đây cũng là lời tuyên xưng đức tin của Hội Thánh.

 

3. Sự cần thiết liên quan đến sứ vụ

 

Cách dùng thứ ba của động từ “dei” (phải) liên hệ đến sứ vụ của Đức Giê-su và sứ vụ của các môn đệ. Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 9,4: “Chúng ta phải (dei) làm công việc của Đấng đã sai Thầy khi còn là ngày; đêm đến thì không ai có thể làm việc được.” Đức Giê-su và các môn đệ cần phải “làm công việc của Thiên Chúa” là Đấng đã sai Đức Giê-su đến thế gian. Trong chương tiếp theo, ch. 10, Đức Giê-su tuyên bố trong dụ ngôn người mục tử tốt như sau: “Tôi còn có những chiên khác, chúng không thuộc ràn này. Tôi cũng phải dẫn dắt chúng và chúng sẽ nghe tiếng Tôi. Và sẽ làm thành một đàn chiên, một mục tử” (10,16).

 

Ở 4,1-43, toàn bộ câu chuyện nói về sứ vụ của Đức Giê-su ở Samari. Đức Giê-su nói với các môn đệ về tương quan giữa “người gieo” và “kẻ gặt” qua hình ảnh mùa gặt ở 4,35-38: “35 Chẳng phải anh em nói rằng: ‘Còn bốn tháng nữa thì mùa gặt sẽ đến hay sao?’ Này, Thầy nói cho anh em: Hãy ngước mắt anh em lên và nhìn xem những cánh đồng, chúng chín vàng cho mùa gặt. Rồi kìa, 36 người gặt lãnh nhận tiền công và thu hoa lợi cho sự sống đời đời, để người gieo lẫn kẻ gặt đều vui mừng. 37 Về điều ấy, lời này là đúng: ‘Kẻ này là người gieo, kẻ khác là người gặt.’ 38 Chính Thầy sai anh em đi gặt điều chính anh em đã không vất vả làm ra. Người khác đã vất vả, còn anh em, anh em được hưởng sự vất vả của họ.” Thực  vậy, “những cánh đồng đã  chín vàng cho mùa gặt” bởi vì cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su với những người Samari đã nẩy sinh lòng tin. Những người Samari đã sẵn sàng tin vào Đức Giê-su nhờ lời mặc khải của Người.

 

Người thuật chuyện kể về kết quả cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Samari ở cuối trình thuật: “Trong thành đó [Xy-kha], nhiều người Sa-ma-ri đã tin vào Người, nhờ lời người phụ nữ làm chứng rằng: ‘Ông ấy nói với tôi tất cả những gì tôi đã làm’” (4,39). Người phụ nữ Samari được nói đến ở 4,39 như người đi truyền giáo. Ý tưởng tin vào Đức Giê-su nhờ lời hay nhờ lời chứng của người khác, nối kết với lời can thiệp của Đức Giê-su với Cha của Người ở 17,20. Trong câu này, Đức Giê-su ngỏ lời với Cha của Người về sứ vụ của các môn đệ: “Con không chỉ can thiệp cho những người này, nhưng còn cho những người tin vào Con nhờ lời của họ” (17,20). Cụm từ “những người này” ở 17,20 là các môn đệ thuộc thế hệ thứ nhất, họ đang nghe Đức Giê-su ngỏ lời với Cha trong Ga 17. Cụm từ “những người tin vào Con nhờ lời của họ” là tất cả các môn đệ, từ thế hệ thứ hai cho đến nay. Họ là những người tin vào Đức Giê-su nhờ lời rao giảng và lời chứng của các môn đệ khác. Nói cách khác, họ tin nhờ lời rao giảng và lời chứng của Hội Thánh.

 

Phần kết thúc trình thuật 4,1-43 lại đề cao và nhấn mạnh đề tài “tin” như là kết quả của sứ vụ. Người thuật chuyện kể ở 4,40-41: “40 Vậy khi những người Sa-ma-ri đến với Người, Họ xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. 41 và nhiều người hơn nữa đã tin, nhờ lời của Người.” Từ nhận định “NHIỀU NGƯỜI đã tin” ở 4,39 đến “NHIỀU NGƯỜI HƠN NỮA đã tin” ở 4,41, người thuật chuyện cho thấy sự thành công của sứ vụ mà Đức Giê-su đã thực hiện tại Samari. Trong viễn cảnh này, kiểu nói “Đức Giê-su phải băng qua Samari” diễn tả sự cần thiết liên quan đến việc thi hành sứ vụ của Người ở Samari.

 

IV. Kết luận

 

Những phân tích trên cho thấy cách dùng động từ “dei” (phải) trong Tin Mừng Gio-an trình bày sự cần thiết theo nghĩa thần học. Đối với mọi người, cách duy nhất để vào vương quốc Thiên Chúa là “phải được sinh ra một lần nữa” (3,7), sau đó người tin “phải thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật” (4,34). Đối với Đức Giê-su, Người “phải được giương cao” trên thập giá (3,14) và Người “phải trỗi dậy từ giữa những kẻ chết” (20,9). Đối với sứ vụ, Đức Giê-su và các môn đệ “phải làm công việc của Thiên Chúa” (9,4). Qua hình ảnh “người mục tử tốt” và “đàn chiên”, Đức Giê-su còn có những con chiên khác không thuộc ràn này, Người phải dẫn đắt chúng về để làm thành một đàn chiên một mục tử (10,16). Trong viễn cảnh thần học này, động từ “dei” (phải) trong câu: “Người [Đức Giê-su] phải băng qua Sa-ma-ri” (4,4) diễn tả sự cần thiết liên quan đến việc thi hành sứ vụ ở Samari. Từ thung lũng sông Giođan, Đức Giê-su đã chọn đi theo con đường dài hơn để đến Galilê, đó là băng qua Samari, thay vì đi con đường ngắn, theo hướng Bethshan để đến Galilê. Đức Giê-su phải làm như thế để thi hành sứ vụ của Người ở Samari.

 

Trên bình diện thần học, Đức Giê-su phải đi qua Samari (4,4) để mang những con chiên khác vào đàn chiên của Người (10,16a). Cách hiểu này phù hợp với nội dung trình thuật Ga 4,1-43. Thực  vậy, việc Đức Giê-su gặp gỡ và mặc khải cho người phụ nữ Samari, cũng như việc Đức Giê-su ở lại với những người Samari là một phần sứ vụ của Người. Người phải làm công việc của Thiên Chúa (9,4). Cụ thể trong trình thuật 4,1-43, trước hết Đức Giê-su mặc khải về quà tặng “nước sự sống”. Người nói với người phụ nữ Samari: “Ai uống nước mà chính Tôi sẽ ban cho kẻ ấy, đời đời sẽ không khát” (4,14a). Kế đến, Đức Giê-su mặc khải về cách thờ phượng đích thực: “Thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật” (4,23a). Nhờ những lời mặc khải và sự ở lại của Đức Giê-su với những người Samari, họ đã nhận biết Đức Giê-su là ai: “Người thật là Đấng cứu độ thế gian” (4,42). Kết quả sứ vụ của Đức Giê-su là hiển nhiên và được nhấn mạnh trong bản văn: Khởi đầu là “nhiều người” (4,39) rồi đến “nhiều người hơn nữa” (4,41) đã tin vào Đức Giê-su. Hoa trái của sứ vụ được so sánh với cánh đồng lúa chín vàng sẵn sàng cho mùa gặt (4,35). Như thế, phù hợp với bối cảnh chung của Tin Mừng Gio-an và bối cảnh riêng của đoạn văn 4,1-43, chúng ta có thể kết luận rằng, động từ “dei” (phải) ở Ga 4,4 diễn tả sự cần thiết theo nghĩa thần học. Vì sứ vụ, Đức Giê-su phải đi qua Samari, và một cách hàm ẩn, bản văn nói đến sự cần thiết thi hành sứ vụ của các môn đệ trong thế gian./.

  

Ngày 23 tháng 09 năm 2012

Giuse LÊ MINH THÔNGO.P.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/09/ga-44-tai-sao-uc-gie-su-phai-bang-qua.html

 

 

Nơi chốn trong Ga 4,1-43. Samari, Sychar, giếng Giacóp, núi Gerizim

Hình từ Google maps

 

[The article in English]

Places in Jn 4:1-43.Samaria, Sychar, Jacob’s Well, Mount Gerizim

 

Tác giả: Giuse LÊ MINH THÔNGO.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ 
This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Ngày 09 tháng 09 năm 2012

 

 

Nội dung

 

I.  Dẫn nhập

II. Vùng đất Samari và thành Samari

1. Giuđê – Samari – Galilê

2. Thành Samari – thành Sebaste

III. Những nơi Đức Giê-su gặp gỡ người Samari

1. Sychar – Askar – Shechem 

2. Giếng Giacóp

3. Núi Gerizim và núi Ebal

IV. Kết luận

    Thư mục

 

 

I. Dẫn nhập

 

Bài viết này bàn đến các tên riêng và địa danh trong Kinh Thánh cũng như một số tên riêng và địa danh ngoài bản văn Kinh Thánh. Để đơn giản và tiện lợi khi viết cũng như đọc, một số địa danh và tên riêng được viết giống như trong bài viết Anh ngữ: “Places in Jn 4,1-43: Samaria, Sychar, Jacob’s well, Mount Gerizim”. Trong các câu trích dẫn Kinh Thánh tên riêng được dùng theo phiên âm của bản dịch (có gạch ngang giữa các âm), trong bài viết sẽ không dùng gạch ngang. Trích dẫn Tin Mừng Gio-an lấy trong: Bảnvăn Gio-an,Tin Mừng và Ba thư Hy Lạp – Việt.

 

Trình thuật Đức Giê-su gặp gỡ những người Samari trong đoạn văn Ga 4,1-43 nói đến nhiều địa danh. Người thuật chuyện nhắc đến ba miền: Giuđê, Samari và Galilê ở 4,3-4: “3 Người [Đức Giê-su] rời bỏ Giu-đê và lại đi đến Ga-li-lê. 4 Nhưng Người phải băng qua Sa-ma-ri.” Những địa danh này ở đâu? Sau khi trình bày hành trình tổng quát của Đức Giê-su (4,3-4), người thuật chuyện mô tả nơi chốn cụ thể ở 4,5-6a: “5 Vậy Người [Đức Giê-su] đến một thành Sa-ma-ri, gọi là Xy-kha, gần thửa đất mà Gia-cóp đã cho Giu-se, con của ông ấy. 6a Ở đó có giếng Gia-cóp.” Một địa danh khác được nhắc tới ở cuối phần đối thoại giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Samari. Chị ấy nói với Đức Giê-su: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng ở núi này; còn các ông, các ông nói rằng: ở Giê-ru-sa-lem mới là nơi phải thờ phượng” (4,20). Theo trình thuật, Đức Giê-su gặp người phụ nữ Samaria tại giếng Giacóp, gần chân núi Gerizim. Trên núi này đã từng có đền thờ của người Samari. Vì thế, khi người phụ nữ dùng kiểu nói: “núi này” (4,20), chị ấy nói tới núi Gerizim, ở ngay trước mắt chị.

 

Bài viết này sẽ bàn tới những địa danh trong đoạn văn Ga 4,1-43. Một vài bản đồ về Đất Thánh sẽ giúp nhận dạng các vùng đất Giuđê, Samari và Galilê. Sau đó sẽ bàn tới thành phố cổ Samari mà ngày nay là thành Sebaste. Điểm nhấn của câu chuyện là cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su với người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp, gần thành Sychar. Chúng tôi sẽ trình bày sơ lược kết quả khảo cổ ở chung quanh thành phố Nablus ngày nay: Shechem – Sychar – Askar. Nhiều nhà khảo cổ đồng hoá làng Sychar thời Đức Giê-su với làng Askar ngày nay. Về địa danh giếng Giacóp và núi Gerizim, chúng tôi sẽ minh hoạ qua một số hình ảnh và tóm tắt lịch sử của các địa danh này.

 

Trình bày về những địa danh và nơi chốn trong Ga 4,1-43 có thể giúp độc giả thưởng thức những hình ảnh thực tế và sinh động của câu chuyện. Nhưng điều quan trọng hơn là qua bức tranh đẹp và sinh động ấy, người thuật chuyện mời gọi độc giả vượt qua, vượt lên trên những nơi chốn cụ thể, để từ đó áp dụng ý nghĩa câu chuyện vào những cuộc gặp gỡ hằng ngày của độc giả hôm nay.

 

II. Vùng đất Samari và thành Samari

 

1. Giuđê – Samari – Galilê

 

Bản đồ vùng đất Palestine thời Đức Giê-su:

 

Bản đồ từ History Online

 

Vào thời Đức Giê-su, vùng đất Palestine được chia thành ba miền: Miền Giuđa ở phía Nam, miền Samari ở giữa và miền Galilê ở phía Bắc (xem bản đồ). Vào thời Đức Giê-su rao giảng công khai, miền Giuđê và Samari là một tỉnh của đế quốc Rôma. Miền Galilê và Peraea thuộc quyền vua Hêrôđê Antipas. Vùng Gaulanitis thuộc quyền vua Hêrôđê Philíp II. Lãnh thổ Decapolis (Thập Tỉnh), tiếng Hy Lạp có nghĩa là mười (deca) thành (polis). Decapolis là nhóm 10 thành ở về biên giới phía Đông của đế quốc Rôma, tiếp nối vùng đất Giuđê và Syri. Quy chế chính trị của 10 thành này vào thời đó là tự trị (autonomous cities).

 

      2. Thành Samari – thành Sebaste

 

Người thuật chuyện cho độc giả biết ở 4,3-4: “3 Người [Đức Giê-su] rời bỏ Giu-đê và lại đi đến Ga-li-lê. 4 Nhưng Người phải băng qua Sa-ma-ri.” Trong câu này, tên gọi Samari không phải là thành Samari mà là vùng đất Samari. Đã từng hiện hữu một thành Samari hùng mạnh và là thủ đô của Vương quốc Ítraen ở miền Bắc (vương quốc Giuđa ở miền Nam). Thủ đô Samari do vua Omri (khoảng 885-874 BCE) thiết lập và kéo dài cho đến khi thành Samari bị Sargon II chiếm vào năm 721 BCE (Before the Common Era, Before the Current Era hay Before the Christian Era) và vương quốc Ítraen phía Bắc bị sụp đổ. Đến thời đế quốc Hy Lạp, thành Samari bị Alexander đại đế đánh chiếm năm 331 BCE. Đến khoảng năm 108 BCE, thành Samari lại bị John Hyrcan tàn phá (cf. Josephus Ant. 13:275-281). Dưới thời đế quốc Rôma, Pompey xây dựng lại thành Samari khoảng năm 63 BCE. Đến năm 27 BCE, hoàng đế Augustus Caesar cho vua Hêrôđê Cả (Herod the Great) thành này, vua Hêrôđê Cả đã mở rộng và xây dựng lại thành Samari rồi đặt lại tên thành là “Sebaste”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là “Augustus”, để tôn vinh hoàng đế. Vì thế, vị trí thành “Sebaste” trong bản đồ trên đây là thành “Samari” trong bản đồ Samari cổ dưới đây.

 

Thành Samari-Sebaste để lại nhiều di tích khảo cổ quan trọng. Những khai quật cho thấy vị trí thành Samari-Sebaste đã tìm thấy dấu vết của sáu nền văn hoá, trải qua sáu thời đại khác nhau: Canaanite, Israelite, Hellenistic, Herodian, Roman và Byzantine. 

 

Đức Giê-su phải băng qua Samari (4:4), nhưng đâu là nơi Đức Giê-su gặp gỡ người phụ nữ Samari? Nơi Đức Giê-su ở lại với những người Samari là ở chỗ nào? Phần tiếp theo sẽ bàn đến các địa danh: “Sychar – Askar – Shechem” (4,5a); thửa đất Giacóp đã cho Giuse (4,5b), Giếng Giacóp (4,6a) và “núi này” (4,20a), tức là núi Gerizim. III. Những nơi Đức Giê-su gặp gỡ người Samari

 

Bản đồ vùng Samari cổ

 

Bản đồ từ History Online

 

Ở giữa miền đất Samari trên bản đồ, chúng ta thấy các địa danh: Askar, Shechem, Nablus, núi Ebal và núi Gerizim, vậy thành Sychar và giếng Giacóp ở đâu?

 

1. Sychar – Askar – Shechem

Thành Sychar được người thuật chuyện mô tả như sau: “Vậy Người [Đức Giê-su] đến một thành Sa-ma-ri, gọi là Xy-kha [Sychar], gần thửa đất mà Gia-cóp đã cho Giu-se, con của ông ấy. Ở đó có giếng Gia-cóp” (4,5-6a). Thánh Giêrônimô đồng hoá thành Sychar với thành Shechem. Người ta cũng tìm thấy trong thủ bản Syriac thay vì viết Sychar thì viết là Shechem, nhưng rất có thể người sao chép bản văn (copyist) đã sửa Sychar thành Shechem. Đa số tuyệt đối các thủ bản viết Sychar. Câu hỏi đặt ra là thành Sychar ở đâu?

 

Mô tả ở Ga 4,5-6 gợi lại trình thuật trong sách Sáng thế ở 33,18-20: “18 Khi ở Pát-đan A-ram về, ông Gia-cóp đến thành Si-khem, trong đất Ca-na-an, bình an vô sự, và ông cắm trại đối diện với thành. 19 Ông tậu của con cái ông Kha-mo, cha của Si-khem, một thửa đất, nơi ông đã căng lều, với giá một trăm đồng bạc. 20 Tại đây, ông dựng một bàn thờ mà ông gọi là “Ên, Thiên Chúa của Ít-ra-en” (St 33,18-20, NPD/CGKPV) Đoạn văn nói về Sikhem (Shechem) chứ không nói đến thành Sychar. Trong toàn bộ Kinh Thánh, địa danh “Sychar” chỉ được nói đến một lần ở Ga 4,5. Vì thế, một số nhà chuyên môn đã muốn đồng hoá thành Sychar với thành cổ Shechem. Tuy nhiên, xu hướng đa số các nhà khảo cổ ngày nay đồng hoá thành Sychar với Askar, một làng nhỏ hiện nay.

 

Tiêu chuẩn để biết vị trí của thành Sychar là (1) gần thửa đất mà Giacóp đã cho Giuse (4,b) và (2) không xa giếng Giacóp (4,6a). Một số nhà chuyên môn đồng hoá Sychar với thành cổ Shechem bởi vì kết quả khảo cổ cho thấy thửa đất mà Giacóp đã cho Giuse ở bên cạnh những di tích của thành Shechem cổ, thành này gần với khu vực ngày nay gọi là Balata (xem SCHEIN, Following the Way, 1980, p. 205).

 

Tuy nhiên, nhiều nhà chuyên môn khác cho rằng: Thành Sychar nói đến trong Ga 4,5 là làng Askar (xem bản đồ trên đây). Rudolf Schnackenburg viết: “Địa danh mà tác giả Tin Mừng gọi là Sychar (hay Sichar) được đa số đồng hoá với làng Askar ngày nay, đó là một ngôi làng nhỏ cách giếng Giacóp hơn nửa dặm (hơn 800 mét) theo hướng Đông – Bắc” (SCHNACKENBURG, The Gospel, vol. I,p. 423). Ga 4,5 mô tả gọi Sychar bằng từ Hy Lạp “polis” có nghĩa là “thành” hay ít  ra cũng là một “thị trấn”. Những khảo cổ ở khu vực Balata ngày nay cho thấy vết tích của thành Shechem cổ, nhưng không biết rõ khi nào ngôi làng mới được thành lập. Bởi vì thành Shechem cổ đã bị John Hyrcan tàn phá năm 128 BCE. Thành phố mới Flavia Neapolis (cách thành Shechem cổ khoảng 2,5 km) chưa xuất hiện vào thời Đức Giê-su (30-33 CE). Bởi vì Flavia Neapolis được hoàng đế Vespasian xây dựng vào năm 72 CE (Common Era, Current Era hay Christian Era). Ngày nay thành phố này có tên gọi Nablus. Trên bản đồ dưới đây chỉ ra thành Sychar và giếng Giacóp:

 

Hình từ http://bibleatlas.org/sychar.htm

 

Làng Askar ngày nay nằm gần chân núi Ebal, phía Đông – Bắc giếng Giacóp. Mảnh đất gần làng Askar thường được cho là thửa đất mà Giacóp đã cho Giuse (4,5b). Cho dù làng Askar chỉ xuất hiện thời người Ả rập đến ở vùng đất Palestine, có thể cho rằng làng Askar được xây dựng trên thành cổ Sychar.

 

Tóm lại, dựa trên kết quả khảo cổ ngày nay, địa danh thành Sychar có thể định vị tại làng Askar ngày nay. Đó là một thị trấn của người Samari, ở dưới chân núi Ebal gần giếng Giacóp. Có thể đã có một cộng đoàn Kitô hữu ở Sychar vào lúc Tin Mừng Gio-an được biên soạn cuối thế kỷ I CE.

 

      2. Giếng Giacóp

 

“Giếng Giacóp vẫn còn đó cho đến ngày nay, nơi đã được khách hành hương trước đây nói tới. Giếng này chắc chắn là xác thực cho dù không được nói đến trong Cựu Ước” (SCHNACKENBURG,The Gospel, vol. I, p. 424). Đây là hình chụp giếng Giacóp vào năm 1894:

 

Hình từ http://hitch.south.cx

 

Giám mục John H. Vincent giải thích tấm hình này trong “Earthly Footsteps of the Man of Galilee”, khi viếng thăm giếng năm 1894 như sau: “Giếng Giacóp hiện nay thuộc về một nhà thờ Hy Lạp (…). Giếng này sâu 75 feet (22,8 mét), bề rộng là 7 feet 6 inches (2,30 mét). Đường kính mặt bằng giếng là 17,5 feet (5,3 mét). Một tầng hầm mái vòm bao phủ trên giếng, có chiều dài 20 feet (6 mét), chiều rộng 10 feet (3 mét) và chiều cao 6 feet (1,8 mét). Những tảng đá cẩm thạch bị vỡ ở phía trước tấm hình thuộc về một số nhà thờ cổ xưa” (http://hitch.south.cx/biblesidenotes-e20%20Jacobs%20Well.htm).

 

Hội Thánh Chính Thống Hy Lạp đã mua khu đất đổ nát của nhà thờ trên, là nơi ghi nhớ biến cố Đức Giê-su gặp gỡ người phụ nữ Samari bên bờ giếng Giacóp (Ga 4). Hội Thánh Chính Thống Hy Lạp đã khởi công xây dựng một nhà thờ mới từ trước Thế Chiến thứ nhất (the First World War), nhưng khi mới chỉ xây được một phần của những bức tường phía ngoài thì đã phải ngưng lại vì chiến tranh. Đây là tấm hình chụp năm 1999. Công việc xây dựng nhà thờ đang được xúc tiến:

 

Hình chụp tháng 11/1999, từ http://welcometohosanna.com

 

Sau hơn 80 năm dang dở, nhà thờ đã được hoàn tất năm 2007. Đây là nhà thờ thánh Photina ngày nay, thuộc Hội Thánh Chính Thống Giáo Hy Lạp: 

 

Hình từ http://welcometohosanna.com

 

Hình của ssiatravani

 

Bên trong nhà thờ thánh Photina:

 

Hình chụp năm 2009 của Ferrell Jenkins

 

Đây là giếng Giacóp ở dưới hầm mộ (crypt) của nhà thờ:

 

Hình chụp từ post card

 

 

Hình của ssiatravani

 

Đây là miệng giếng Giacóp:

 

Hình của ssiatravani

 

Giếng thì không thể di chuyển đi nơi khác, vì thế chúng ta có thể xác định đây là nơi mà Đức Giê-su đã vất vả vì đi đường nên ngồi xuống bờ giếng, và Người đã gặp gỡ và mặc khải cho người phụ nữ Samari biết Người là ai. Đúng như người phụ nữ đã nói với Đức Giê-su: “Thưa Ông, Ông không có gầu và giếng lại sâu…” (4,11). Đúng vậy, giếng sâu hơn 21 mét và ngày nay, giếng Giacóp vẫn có nước mát và trong có thể uống được (WALKER, In the Steps of Jesus, 2006, p. 87-88). Vào thời Đức Giê-su giếng có thể sâu hơn. Các truyền thống Do Thái giáo, Samari, Kitô giáo và Hồi giáo đều liên kết giếng này với tổ phụ Giacóp.       3. Núi Gerizim và núi Ebal

 Hình từ BiblePlaces.com

 

Núi Gerizim bên phải và núi Ebal bên trái

 

Núi Gerizim thuộc vùng đồi núi Samari, núi này cao khoảng 868 mét so với mực nước biển Địa Trung Hải và cao 244 mét tính từ chân núi. Núi Ebal bên cạnh, cao 938 mét so với mực nước biển Địa Trung Hải và cao 366 mét tính từ chân núi (xem chi tiết tại http://bibleatlas.orghttp://classic.net.bible.org). Giữa hai núi Gerizim và Ebal là vùng đất thành Shechem cổ (ngày nay là thành Nablus). Sychar (Askar) ở chân núi Ebal và phía nam là giếng Giacóp theo hướng núi Gerizim.

 

Theo sử gia Josephus, Sanballat là thủ lãnh người Samari đã xây một đền thờ trên núi Gerizim, và thiết lập làng tư tế đối lập với đền thờ và tư tế ở Giêrusalem (cf. Josephus Ant. 11:8,2-4). Sự căng thẳng về tôn giáo giữa người Do Thái và người Samari đã dẫn đến biến cố John Hyrcan phá huỷ đền thờ trên núi Gerizim vào cuối thế kỷ II BCE. Trước đó đền thờ Gerizim đã tồn tại 200 năm. Vào thời kỳ Kitô giáo được đế quốc Rôma nhìn nhận và phát triển trên toàn đế quốc, một nhà thờ Kitô giáo hình bát giác (octagonal church) được xây dựng trên núi Gerizim vào năm 475 CE. Sau đó nhà thờ này bị người Hồi Giáo phá huỷ vào thế kỷ VIII. (xem WALKER, In the Steps of Jesus, 2006, p. 89). Đây là di tích nhà thờ Kitô giáo trên núi Gerizim ngày nay:

 

Hình của Ron Peled

 

 

Hình từ Illustrated Dictionary

 

Vào thời Giôsua núi Gerizim và núi Ebal là nơi Giôsuê đọc những lời chúc phúc và nguyền rủa trong sách Luật cho dân nghe (Gs 8,30-35). Vào thời Đức Giê-su, núi Gerizim gần giếng Giacóp, là nơi Đức Giê-su gặp gỡ người phụ nữ Samari. Núi Gerizim chính là “núi này” trong lời người phụ nữ nói với Đức Giê-su ở 4,20: “Cha ông chúng tôi đã thờ phượng ở núi này…” 

 

IV. Kết luận

 

Bối cảnh lịch sử của Ga 4,1-43 liên quan đến một số địa danh ở Đất Thánh. Trong đoạn văn này người thuật chuyện nói đến nhiều địa danh: các vùng đất Giuđê, Samari, Galilê, thành Sychar, giếng Giacóp và “núi này” tức là núi Gerizim. Trình thuật Ga 4,1-43 tập trung vào hai cuộc gặp gỡ: (1) Đức Giê-su và người phụ nữ Samari (4,7-26), (2) Đức Giê-su ở lại với dân thành Sychar hai ngày (4,37-42). Một số thông tin về các nơi chốn trên đây trong dòng lịch sử, từ Cựu Ước đến Tân Ước và cho đến ngày nay, có thể giúp độc giả hiểu rõ hơn thông điệp của câu chuyện: “Ở đâu” và “bằng cách nào” Đức Giê-su đã thực hiện sứ vụ của Người và mặc khải chính Người cho người Samari. 

 

Samari là vùng đất ngoài lãnh thổ Do Thái Giáo, người Samari bị người Do Thái xem như là người ngoại. Đối diện với nhiều rào cản: khác nhau về niềm tin (người Do Thái – người Samari), khác nhau về phái tính (nam giới - nữ giới), khác nhau về nơi thờ phượng (Giêrusalem - Gerizim), Đức Giê-su đã giải thoát người phụ nữ Samari và dân thành Sychar khỏi tất cả những rào cản trên ngang qua cuộc gặp gỡ và nhờ những lời mặc khải của Người. Đức Giê-su đã mặc khải cho người phụ nữ Samari, và qua chị, mặc khải cho mọi người biết sự thờ phượng đích thực trong đoạn văn 4,21.23a: “21 Hãy tin Tôi, giờ đến, không phải ở trên núi này cũng chẳng phải ở Giê-ru-sa-lem, các người sẽ thờ phượng Cha. (22…). 23a Nhưng giờ đến – và là bây giờ –, khi mà những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật.”

 

Việc thờ phượng dựa trên một nơi chốn cụ thể thì bị giới hạn trong không gian và thời gian, đồng thời thường dẫn đến tranh chấp và xung đột. Sự thờ phượng đích thực của người môn đệ Đức Giê-su không dựa trên nơi chốn nhưng đặt nền tảng trên cách thức: “thờ phượng trong Thần Khí và sự thật”. Nói cách khác, người môn đệ Đức Giê-su hiện diện ở đâu, thì ở đó là nơi thờ phượng đích thực. Nghĩa là người môn đệ có thể thờ phượng Chúa Cha, một cách đích thực, trong Thần Khí và sự thật, ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào.

 

Cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê-su và người phụ nữ Samari đã diễn ra ở một nơi cụ thể: giếng Giacóp, gần thành Sychar miền Samari. Tuy nhiên câu chuyện mời gọi độc giả đi xa hơn những địa danh trong trình thuật. Người môn đệ của Đức Giê-su là người có khả năng biến đổi những cuộc gặp gỡ hằng ngày thành những cuộc gặp gỡ tương tự như chuyện đã xảy ra bên bờ giếng Giacóp năm xưa. Qua câu chuyện, người thuật chuyện khích lệ cộng đoàn tín hữu thực hiện sứ vụ trong thế gian. Vì thế, nếu như những cuộc gặp gỡ hằng ngày của người môn đệ hôm nay có khả năng giải thoát người khác khỏi mọi hình thức ngăn cách khác nhau (niềm tin, giới tính, nơi thờ phượng) và dẫn mọi người tới sự chia sẻ, đối thoại, và nhận ra Đức Giê-su là Đấng cứu độ thế gian, thì thông điệp của trình thuật đã và đang được thực hiện./.

 

Thư mục

 

KEENER, Craig S., The Gospel of John. A Commentary, vol. I and II, Peabody (MA), Hendrickson Publishers, 2003, 1636 p.

 

Revised Standard Version - Second Catholic Edition, 2006 (RSV-SCE).

 

SCHEIN, Bruce E., Following the Way, the setting of John’s Gospel, Minneapolis (MN), Augsburg Publishing House, 1980.

 

SCHNACKENBURG, Rudolf, The Gospel According to St. John,vol. I: Introduction and Commentary on Chapter 1–4, New York, The Crossroad Publishing Company, (1965), 1987, 638 p. (Orig.Das Johannesevangelium, 1965).

 

WALKER, Peter, In the Steps of Jesus, an Illustrated Guide to the Places of the Holy Land, Oxford, Lion Hudson, 2006. WIGODER, Geoffrey, (Ed.), The Illustrated Dictionary & Concordance of the Bible, New York (NY), Sterling Publishing, 2005.

 

Tài liệu Internet:

Bible Encyclopedia: http://christiananswers.net/dictionary/

Bible History: http://www.bible-history.com/maps/

Bible Places: http://bibleplaces.com/

Bible Study Tools: http://www.biblestudytools.com/

Biblos: http://biblos.com/

Catholic Encyclopedia: http://www.newadvent.org/cathen/

Christian Answers: http://christiananswers.net/

Holy Land Photos: http://www.holylandphotos.org/

Life in the Holy Land: http://www.lifeintheholyland.com/

NET BIBLE: http://classic.net.bible.org/home.php

 

 

Ngày 09 tháng 09 năm 2012

Giuse LÊ MINH THÔNGO.P.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/09/noi-chon-trong-ga-41-43-samari-sychar.html

 

 

 

Kỹ thuật hành văn: “Ý nghĩa câu chuyện” bộc lộ qua “cách thức kể chuyện” (Lc 7,36-50)

 

Bản văn Lc 7,36-50 (NPD/CGKPV)

 

36 Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu ấy và vào bàn ăn.

37 Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm.

38 Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên.

39 Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu đã mời Người liền nghĩ bụng rằng: "Nếu quả thật ông này là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai, là thứ người nào: một người tội lỗi!"

40 Đức Giê-su lên tiếng bảo ông: "Này ông Si-môn, tôi có điều muốn nói với ông!" Ông ấy thưa: "Dạ, xin Thầy cứ nói."

41 Đức Giê-su nói: "Một chủ nợ kia có hai con nợ: một người nợ năm trăm quan tiền, một người năm chục.

42 Vì họ không có gì để trả, nên chủ nợ đã thương tình tha cho cả hai. Vậy trong hai người đó, ai mến chủ nợ hơn?"

43 Ông Si-môn đáp: "Tôi thiết tưởng là người đã được tha nhiều hơn." Đức Giê-su bảo: "Ông xét đúng lắm."

44 Rồi quay lại phía người phụ nữ, Người nói với ông Si-môn: "Ông thấy người phụ nữ này chứ? Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau.

45 Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi.

46 Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi.

47 Vì thế, tôi nói cho ông hay: tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều. Còn ai được tha ít thì yêu mến ít."

48 Rồi Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Tội của chị đã được tha rồi."

49 Bấy giờ những người đồng bàn liền nghĩ bụng: "Ông này là ai mà lại tha được tội?"

50 Nhưng Đức Giê-su nói với người phụ nữ: "Lòng tin của chị đã cứu chị. Chị hãy đi bình an."

 

1. Dẫn nhập

 

Cách sắp xếp các chi tiết trong bài Tin Mừng Lc 7,36-50 là một ví dụ về ý nghĩa câu chuyện được chuyển tải qua cách thức kể chuyện. Qua cách kể chuyện, tác giả có thể muốn nói với độc giả rằng: Những giá trị, những điều được đánh giá cao và được nhiều người chấp nhận theo tiêu chuẩn trong xã hội, thì Đức Giê-su lại đảo ngược thang giá trị đó. Ngược lại, những điều mà tiêu chuẩn chung xem là không thích hợp, không xứng đáng thì Đức Giê-su lại đánh giá cao theo một chuẩn mực khác. Trình thuật có khả năng chuyển tại được thông điệp này nhờ cách sắp xếp các tình tiết trong câu chuyện. Trong đoạn văn Lc 7,36-50, nếu theo thứ tự thời gian thì những gì đã xảy ra trải qua 6 bước:

 

1. Người Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su đến dùng bữa.

2. Ông ta bỏ qua những việc làm để bày tỏ sự đón tiếp Đức Giê-su.

3. Một phụ nữ tội lỗi đi vào và thực hiện những cử chỉ tiếp đón lạ thường.

4. Người Pha-ri-sêu lên tiếng phản đối.

5. Đức Giê-su không đồng ý với ông ta và Người giải thích.

6. Người phụ nữ được tha tội vì yêu mến nhiều.

 

Chúng ta cùng tìm hiểu cách thức kể chuyện trong đoạn văn Lc 7,36-50 để xem tác giả kể theo thứ tự nào và thông điệp của bản văn là gì?

 

2. Phần đầu câu chuyện (Lc 7,36-39)

 

Tác giả không kể câu chuyện theo thứ tự thời gian qua các bước như trên. Bước thứ 2: “Người Pha-ri-sêu không đón tiếp Đức Giê-su” được kể ở cuối câu chuyện để so sánh hai ý tưởng: “những gì người phụ nữ đã làm” và “những gì ông Si-môn đã không làm”. Cách kể chuyện bỏ qua bước thứ 2 ở đầu câu chuyện làm cho độc giả, khi đọc phần đầu câu chuyện, sẽ đánh giá cao người Pha-ri-sêu và đồng ý với nhận định của ông ấy về người phụ nữ tội lỗi.

 

Chuyện kể như sau: “Có người thuộc nhóm Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su dùng bữa với mình. Đức Giê-su đến nhà người Pha-ri-sêu và vào bàn ăn” (7,36). Nếu chỉ có thế, thì đây là một người tốt. Người Pha-ri-sêu quý trọng Đức Giê-su và mời Người đến nhà dùng bữa. Đức Giê-su đã “vào bàn ăn” với ông ấy như thể mọi chuyện diễn tiến tốt đẹp.

 

Tiếp đến, câu chuyện kể về người phụ nữ: “Bỗng một phụ nữ vốn là người tội lỗi trong thành, biết được Người đang dùng bữa tại nhà ông Pha-ri-sêu, liền đem theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm. Chị đứng đằng sau, sát chân Người mà khóc, lấy nước mắt mà tưới ướt chân Người. Chị lấy tóc mình mà lau, rồi hôn chân Người và lấy dầu thơm mà đổ lên” (7,37-38). Theo quy ước của xã hội thời đó, người đọc có thể kết luận: Người phụ nữ này không tốt vì là “người tội lỗi trong thành” và đã xử sự không phải phép. Đức Giê-su đang ăn mà lại khóc lóc và làm những hành động bày tỏ tình cảm không bình thường.

 

Cứ lẽ thường, khi đọc phần đầu câu chuyện, độc giả đồng ý với nhận định của ông Si-môn: Nếu Đức Giê-su là ngôn sứ, thì hẳn phải biết người đàn bà đang đụng vào mình là ai: “một người tội lỗi” (7,39). Người đọc có thể đồng ý, vì cho đến lúc này, bản văn cho phép đánh giá ông Si-môn là người tốt. Như thế, cách kể phần đầu câu chuyện làm cho người đọc hiểu rằng: Người Pha-ri-sêu là hiếu khách; còn người phụ nữ là người vừa tội lỗi, vừa làm những hành động chướng tai gai mắt. Nhưng phần sau câu chuyện đã làm đảo lộn hoàn toàn nhận định này.

 

3. Phần cuối câu chuyện (Lc 7,40-50)

 

Trong phần cuối câu chuyện (Lc 7,40-50), Đức Giê-su làm đảo lộn mọi thứ. Điều độc đáo trong cách kể chuyện là những thiếu sót của người Pha-ri-sêu mà theo thứ tự thời gian là bước thứ 2 (thuộc phần đầu câu chuyện), thì tác giả lại kể trong phần sau và đặt song song để so sánh “những gì người phụ nữ đã làm” (tiếp đón Đức Giê-su) và “những gì người Pha-ri-sêu không làm” (không tiếp đón Đức Giê-su).

 

Câu nói của Đức Giê-su có nét châm biếm khi Người nói với Si-môn: “Ông thấy người phụ nữ này chứ?” Trong khi ông ta đang chăm chú nhìn người phụ nữ và đánh giá chị ta, hơn nữa sự hiện diện của người phụ nữ làm ông ấy khó chịu và trách luôn cả Đức Giê-su, thì Đức Giê-su lại hỏi: “Ông thấy người phụ nữ này chứ?” Thực ra, dường như có cái gì đó nơi người phụ nữ mà ông Si-mon đã không thấy, không nhận ra, không biết. Đồng thời, câu hỏi: “Ông thấy người phụ nữ này chứ?” cũng dành cho độc giả. Tác giả mời gọi độc giả hãy chú ý để “thấy” người phụ nữ, hãy “nhìn kỹ lại” những gì chị ta đã làm để đánh giá đúng hành động của chị. Chính Đức Giê-su đã chỉ ra cho ông Si-môn và độc giả cách hiểu đúng về “hành động” của người phụ nữ và hiểu đúng về “con người” của chị.

 

Sau khi kể dụ ngôn tình thương của hai con nợ được tha (Lc 7,41-43) để làm cơ sở cho cách lượng giá, Đức Giê-su so sánh từng điểm một giữa “những gì người phụ nữ đã làm cho Người” và “những gì ông Si-môn đã không làm cho Người.” Nhận định của Đức Giê-su đã lật ngược cách đánh giá bình thường theo tiêu chuẩn xã hội và tiêu chuẩn tôn giáo thời đó. Người nói với ông Si-môn: “Tôi vào nhà ông: nước lã, ông cũng không đổ lên chân tôi, còn chị ấy đã lấy nước mắt tưới ướt chân tôi, rồi lấy tóc mình mà lau. Ông đã chẳng hôn tôi một cái, còn chị ấy từ lúc vào đây, đã không ngừng hôn chân tôi. Dầu ô-liu, ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn chị ấy thì lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi” (7,44-46).

 

Kiểu so sánh mạnh mẽ của Đức Giê-su qua cách thức kể chuyện đã làm đảo lộn thang giá trị. Bởi vì phần đầu bản văn cho phép người đọc nghĩ tốt về người Pha-ri-sêu thì đến lúc này, ông ấy không còn là người hiếu khách nữa và bị Đức Giê-su khiển trách. Còn người phụ nữ, phần đầu câu chuyện làm cho người đọc nghĩ đây là người phụ nữ không tốt, thì đến lúc này độc giả biết rằng chị ấy thực sự là người hiếu khách, người đã đón tiếp Đức Giê-su đúng mức và hành động của chị được Đức Giê-su đánh giá cao.

 

Đức Giê-su kết luận: “Tội của chị rất nhiều, nhưng đã được tha, bằng cớ là chị đã yêu mến nhiều” (Lc 7,47). Đức Giê-su không xí xóa hay xem nhẹ tội của chị ta vì Người nói rõ: “Tội của chị ấy rất nhiều”. Điều quan trọng là cách hành động của chị mà trước đây người Pha-ri-sêu và cả độc giả đánh giá là chướng mắt thì Đức Giê-su lại đề cao, bởi vì hành động của chị được hiểu như là cách bộc lộ tình yêu chân chính, cách bày tỏ lòng sám hối quay trở về. Vì thế, Đức Giê-su tuyên bố: “Tội của chị đã được tha rồi” (Lc 7,48).

 

Ý nghĩa của bài Tin Mừng là chúng ta (độc giả) nên thận trọng với những đánh giá về người khác theo tiêu chuẩn giá trị trong xã hội mình đang sống, kể cả những tiêu chuẩn tôn giáo có sẵn, bởi vì người Pha-ri-sêu đã đánh giá thấp người phụ nữ tội lỗi theo văn hóa tôn giáo thời đó. Bằng cách sắp xếp các tình tiết, Đức Giê-su trong trình thuật đã đảo ngược cách đánh giá của xã hội đương thời để làm nổi bật lên sự lượng giá của Thiên Chúa: Lấy tình yêu và sự sống làm tiêu chuẩn, đồng thời đề cao sự hối cải quay trở về của con người. Ngày nay, nhiều lúc độc giả cũng dựa vào những tiêu chuẩn có sẵn để đánh giá người khác. Trình thuật Lc 7,36-50 mời gọi chúng ta biết cách nhìn và cách lượng giá theo đề nghị của Đức Giê-su.

 

4. Kết luận

 

Chỉ cần thay đổi thứ tự trong cách kể chuyện, tác giả đã làm nên một trình thuật độc đáo, tạo nên sức mạnh cho bản văn và chuyển tải được ý nghĩa câu chuyện.

 

Nếu theo thứ tự thời gian thì câu chuyện gồm các bước:

Phần đầu câu chuyện:

1. Người Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su đến dùng bữa.

2. Ông ta không làm cử chỉ tiếp đón tiếp Đức Giê-su.

3. Một phụ nữ tội lỗi đi vào và làm những hành động không bình thường theo cách lượng giá của nhiều người.

4. Người Pha-ri-sêu lên tiếng phản đối.

Phần cuối câu chuyện:

5. Đức Giê-su không đồng ý với ông ta và Người giải thích.

6. Người phụ nữ được tha tội vì yêu mến nhiều.

 

Nhưng tác giả kể câu chuyện theo thứ tự sau:

Phần đầu câu chuyện:

1. Người Pha-ri-sêu mời Đức Giê-su đến dùng bữa.

2. Không kể bước thứ hai này.

3. Một phụ nữ tội lỗi đi vào và làm những cử chỉ xem ra chướng tai gai mắt.

4. Người Pha-ri-sêu lên tiếng phản đối.

Phần cuối câu chuyện:

5 + 2. Đức Giê-su không đồng ý với ông Si-môn và Người giải thích. Tác giả kể bước thứ 2 trong phần giải thích này và đặt song song “cử chỉ đón tiếp của người phụ nữ” với “thiếu sót của ông Si-môn”. Cách kể chuyện này đề cao hành động của người phụ nữ và làm lộ ra điểm yếu của người Pha-ri-sêu.

6. Người phụ nữ được tha tội vì yêu mến nhiều.

 

Bằng cách đảo lộn thứ tự câu chuyện theo thời gian (kể bước thứ hai trong phần sau), tác giả đã vẽ lên một bức tranh độc đáo với những tương phản mạnh mẽ, vừa châm biếm, vừa hài hước, vừa chuyển tải được ý tưởng thần học quan trọng của bản văn.

 

Giáo huấn của Đức Giê-su mời gọi độc giả thận trọng khi đánh giá người khác dựa trên những tiêu chuẩn và những giá trị có sẵn trong xã hội. Đức Giê-su đảo lộn cách suy nghĩ theo những giá trị sẵn có để đề cao Tình yêu. Đó là tình yêu từ cả hai phía: Tình yêu từ phía con người, vì người phụ nữ tội lỗi đã yêu mến nhiều nên được tha nhiều. Tình yêu từ phía Thiên Chúa, vì Đức Giê-su đã đón nhận và đánh giá cao cách bày tỏ tình yêu chân chính của chị ấy./.

 

Ngày 19 tháng 07 năm 2011.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P.

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/07/ky-thuat-hanh-van-y-nghia-cau-chuyen.html

 

Tìm hiểu Tin Mừng Mác-cô: Tác giả giao tiếp với độc giả qua câu chuyện

 

Nội Dung

 

Dẫn nhập

I. Tác giả giao tiếp với độc giả

   1. Giải thích

   2. Dịch nghĩa

II. Cách xây dựng trình thuật

   1. Xây dựng câu chuyện qua 3 hoặc 5 giai đoạn

   2. Xây dựng nhân vật

   3. Yếu tố thời gian

   4. Chèn vào chuyện đang kể (enchâssement)

Kết luận

 

Dẫn nhập

 

Bài viết sẽ trình bày vắn tắt cách thức tác giả giao tiếp với độc giả qua câu chuyện trong Tin Mừng Mác-cô. Tác giả có thể nói “trực tiếp” với độc giả ngay trong câu chuyện bằng những lời giải thích hay dịch nghĩa các từ khó. Tác giả có thể nói “gián tiếp” với độc giả qua cách xây dựng trình thuật, xây dựng nhân vật và cách trình bày yếu tố thời gian... Đặc biệt trong Tin Mừng Mác-cô xuất hiện kiểu hành văn: Chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác. Những kỹ thuật hành văn trên đây của tác giả nhằm mục đích giúp độc giả hiểu được ý nghĩa câu chuyện. Đó là điều mà tác giả muốn nói với độc giả qua trình thuật.

 

I. Tác giả giao tiếp với độc giả

 

Khi kể chuyện, tác giả có thể giao tiếp với độc giả bằng nhiều cách. Chẳng hạn, tác giả kêu gọi độc giả phải chú ý để hiểu khi tác giả viết: “Các người hãy nghe...” (Mc 4,3); “Ai có tai để nghe thì hãy nghe” (Mc 4,9) xem 7,14; 13,14.

 

Là người viết câu chuyện, tác giả biết mọi sự. Tác giả có thể kể câu chuyện khi chỉ có một mình Đức Giê-su, như khi Người hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni (Mc 14,32-42). Tác giả có thể biết ý định của những kẻ chống đối Đức Giê-su khi họ không lên tiếng. Tác giả đọc được ý định của những người Pha-ri-sêu khi kể: “Họ chăm chú nhìn Người [Đức Giê-su], xem Người có chữa lành anh ta ngày sa-bát không để tố cáo Người” (Mc 3,2). Như thế, độc giả cần tin cậy vào tác giả khi đọc câu chuyện.

 

Có hai cách tác giả thường dùng để giao tiếp với độc giả là giải thích (minh nhiên hay mặc nhiên) và dịch nghĩa các từ khó.

 

1. Giải thích

 

Để giải thích cho độc giả, tác giả có thể dùng nhiều cách như:

(1) Trích dẫn Kinh Thánh (Mc 1,1-3).

(2) Giải thích bằng mở ngoặc đơn (Mc 5,25-26).

(3) Giải thích trong câu chuyện “vì, bởi vì…” (1,22; 3,21; 5,8.42; 6,14; 6,20).

(4) Giải thích các tập tục xa lạ (7,2; 15,42).

(5) Giải thích bằng chính bản văn (mise en abyme) như chuyện xức dầu thơm ở Bê-tha-ni-a (Mc 14,8-9).

(Xem D. MARGUERAT; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, p. 131-137).

 

2. Dịch nghĩa

 

Trong Tin Mừng Mác-cô, tác giả thường dịch nghĩa những từ A-ram (3,17; 5,41; 7,11; 7,34; 14,36; 15,34). Khi liệt kê danh sách 12 Tông đồ, tác giả viết về Gia-cô-bê và Gio-an ở 3,17 như sau: “Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê, và Gio-an em của Gia-cô-bê – Người đặt tên cho họ là Bô-a-nê-ghê, nghĩa là con của thiên lôi –.” Với cụm từ: “nghĩa là con của thiên lôi”, tác giả đã dịch nghĩa từ “Bô-a-nê-ghê”, vì nghĩ rằng độc giả có thể không biết nghĩa của từ này. Khi Đức Giê-su chữa lành người vừa điếc vừa ngọng ở 7,32-37, tác giả kể: “Ngước [Đức Giê-su] mắt lên trời, Người thở dài và nói với anh ta: ‘Ép-pha-tha’, nghĩa là ‘Hãy mở ra.’” Tác giả dịch nghĩa từ “Ép-pha-tha” là “Hãy mở ra” để giúp độc giả hiểu lời Đức Giê-su nói. Điều này cho thấy độc giả Tin Mừng Mác-cô có nhu cầu dịch những từ xa lạ ra thứ ngôn ngữ quen thuộc với độc giả. Những phần giải thích và dịch nghĩa trên đây là dành cho độc giả chứ không liên quan đến các nhân vật trong câu chuyện.

 

II. Cách xây dựng trình thuật

 

Trong Kinh Thánh nói chung và Tin Mừng Mác-cô nói riêng, các trình thuật vừa được xây dựng theo những quy tắc chung, đồng thời có những nét độc đáo riêng. Có thể lưu ý đến 4 yếu tố trong trình thuật Tin Mừng Mác-cô: (1) Xây dựng câu chuyện qua ba hay năm giai đoạn. (2) Cách xây dựng nhân vật. (3) Yếu tố thời gian. (4) Chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác.

 

1. Xây dựng câu chuyện qua 3 hoặc 5 giai đoạn

 

Một trình thuật thường có ba giai đoạn chính: (I) Vấn đề giải quyết; (II) Thực hiện; (III) Kết quả.

 

Ví dụ Mc 1,32-34 xây dựng qua ba giai đoạn:

(I) 32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, họ đem đến cho Người mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám, 33 cả thành tụ họp lại trước cửa,

(II) 34 Người chữa lành nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ,

(III) Người không cho quỷ nói, vì chúng biết Người.

 

Ở cấp độ chi tiết hơn, một trình thuật đầy đủ được xây dựng qua năm giai đoạn:

(I) Tình trạng ban đầu (situation initiale).

(II) Vấn đề cần giải quyết (nouement).

(III) Thực hiện (action transformatrice).

(IV) Kết quả (dénouement).

(V) Tình trạng sau cùng (situation finale).

 

Ví dụ Mc 1,29-31 xây dựng với năm giai đoạn:

(I) 29 Ra khỏi hội đường, lập tức Người đến nhà Si-môn và An-rê, cùng với Gia-cô-bê và Gio-an.

(II) 30 Mẹ vợ của Si-môn nằm liệt vì cảm sốt, tức khắc họ nói với Người về bà.

(III) 31 Đến gần, Người cầm lấy tay bà mà đỡ dậy;

(IV) cơn sốt đã rời khỏi bà

(V) và bà phục vụ họ.

 

Trên thực tế, các trình thuật có thể đủ cả năm giai đoạn hay được rút gọn thành bốn hay ba giai đoạn.

 

2. Xây dựng nhân vật

 

Có nhiều loại nhân vật trong câu chuyện: Nhân vật chính (protagoniste); nhân vật phụ (ficelle, figurant); nhân vật đơn giản (personnage plat), x. Mc 2,23-28; nhân vật phức tạp (personnage rond), x. Mc 3,1-6.

 

Giữa các nhân vật có tương tác với nhau. Chẳng hạn, yếu tố nhân vật trong câu chuyện anh mù Ba-ti-mê (Mc 10,46-52) liên hệ với nhau như sau:

 

 

3. Yếu tố thời gian

 

Tin Mừng Mác-cô thường dùng thời gian: “ngày” để xây dựng câu chuyện. Từ “ngày” (hêmera) xuất hiện 27 lần trong Tin Mừng Mác-cô: 1,9.13; 2,1.20a.20b; 4,27.35; 5,5; 6,21; 8,1.2.31; 9,2.31; 10,34; 13,17.19.20a.20b.24.32; 14,1.12.25.49.58; 15,29. Trong trình thuật khổ nạn, thời gian là “giờ” (hôra). Từ này xuất hiện 12 lần trong Tin Mừng Mác-cô (6,35a.35b; 11,11; 13,11.32; 14,35.37.41; 15,25.33a.33b.34) và tập trung vào trình thuật Thương Khó, ch. 14 – 15.

 

Trạng từ “ngay lập tức” (euthus) xuất hiện 41 lần trong Mác-cô (1,10.12.18.20.21.23.28.29.30.42.43; 2,8.12; 3,6; 4,5.15.16.17.29; 5,2.29.30.42a.42b; 6,25.27.45.50.54; 7,25; 8,10; 9,15.20.24; 10,52; 11,2.3; 14,43.45.72; 15,1), muốn người đọc lưu ý đến sự khẩn cấp về thời gian.

 

Về tốc độ kể chuyện, trình thuật có thể bỏ qua vài chi tiết trong câu chuyện (ellipse), tác giả quyết định chi tiết nào kể trước, chi tiết nào kể sau. Chẳng hạn, trình thuật Mc 10,17-31 nói về đề tài của cải, nhưng phải đợi mãi đến câu 22 mới biết đó là người giàu có.

 

Về tần số xuất hiện (la fréquence), các tình tiết có thể rơi vào một trong các trường hợp sau:

 

(1) Xảy ra x lần, kể x lần (récit singulatif). Chẳng hạn, đề tài “báo trước Thương khó – Phục Sinh” được kể lại ba lần (Mc 8,31; 9,31; 10,33-34).

 

(2) Xảy ra 1 lần, kể x lần (récit répétitif). Ví dụ, chuyện Phao-lô ngã ngựa một lần được kể lại 3 lần trong sách Công Vụ các Tông Đồ với nhiều sự khác nhau đáng kể (Cv 9,1-25; 22,1-21; 26,1-23).

 

(3) Xảy ra x lần, kể 1 lần (récit itératif). Đây là những đoạn văn tóm kết (sommaire), nối kết giữa hai đoạn văn (transititon entre deux scènes) như Mc 4,33-34.

 

Về cách sắp xếp các chi tiết liên quan đến thời gian, có những kiểu hành văn như sau:

 

(1) Kể theo thứ tự thời gian (ordre chronologique).

 

(2) Kể lùi về quá khứ (anachronie analepse) qua công thức “ứng nghiệm lời đã viết”.

 

(3) Kể hướng về tương lai (anachronie prolepse), chẳng hạn Đức Giê-su báo trước Thương Khó – Phục Sinh là điều sẽ xảy ra trong tương lai.

 

Các chi tiết trong hai loại: “Kể lùi về quá khứ” (loại 2) và “kể hướng về tương lai” (loại 3), có thể ở trong bản văn (interne) hay ở ngoài bản văn (externe). Chẳng hạn, trình thuật loan báo Phục Sinh (Mc 16,1-7) là lối “kể hướng về tương lai” hỗn hợp: Ngôi mộ trống là “trong bản văn” (interne) vì đã nói đến trong Tin Mừng Mác-cô, còn ý “đến Ga-li-lê trước các ông” là “ngoài bản văn” (externe) vì cuộc gặp gỡ này không được kể lại trong Tin Mừng Mác-cô.

 

4. Chèn vào chuyện đang kể (enchâssement)

 

Tin Mừng Mác-cô hay dùng kiểu hành văn chèn vào câu chuyện đang kể một câu chuyện khác. Cần nối kết ý nghĩa hai câu chuyện để hiểu, bởi vì ý nghĩa câu chuyện chèn vào soi sáng ý nghĩa câu chuyện đang kể và ngược lại, câu chuyện đang kể giúp hiểu câu chuyện được chèn vào.

 

Sau đây là một số trình thuật lồng vào nhau trong Tin Mừng Mác-cô:

 

(1) Mc 3,20-35. Câu chuyện thân nhân của Đức Giê-su tìm bắt Người vì nghĩ rằng Người mất trí ở 3,20-21, được tiếp với 3,31-35 là trình thuật nói về ai là mẹ và anh em của Đức Giê-su. Phần chèn vào hai đoạn văn trên là đoạn văn 3,22-30 trình bày “Dụ ngôn về Xa-tan trừ xa tan” (3,22-27) và “Nói phạm thượng đến Thánh Thần” (3,28-30).

 

(2) Mc 4,1-34. Phần Đức Giê-su giảng dạy dân chúng bằng dụ ngôn trong Mc 4,1-34 mở đầu bằng “dụ ngôn người gieo giống” (4,1-9) và kết thúc bằng “dụ ngôn đất tự sinh hoa trái” (4,26-29) và “dụ ngôn hạt cải” (4,30-34). Phần chèn vào là đoạn văn 4,10-25, thuật lại những gì Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ.

 

(3) Mc 5,21-43. Trình thuật chữa lành con gái ông Gia-ia được kể trong hai đoạn văn: 5,21-24; 5,35-43. Phần chèn vào là trình thuật người đàn bà bị băng huyết (5,25-34).

 

(4) Mc 6,7-30. Trình thuật Đức Giê-su sai các Tông Đồ đi rao giảng (6,7-13) nối kết với trình thuật các Tông Đồ trở về tụ họp quanh Đức Giê-su và kể lại cho Người tất cả mọi việc họ đã làm và đã dạy (6,30). Phần chèn vào là câu chuyện về Hê-rô-đê (6,14-16) và Gio-an Tẩy Giả bị chém đầu (6,17-29).

 

(5) Mc 11,12-25. Trình thuật cây vả và Đền Thờ được kể lồng vào nhau theo thứ tự như sau:

11,1-11:          Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem

11,12-14:       Cây vả không sinh trái

11,15-19:       Đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền Thờ

11,20-26:       Cây vả khô héo. Lòng tin và cầu nguyện.

Như thế, chuyện cây vả soi sáng cho chuyện đuổi kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ. Nói cách khác, Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được ví như cây vả không sinh trái.

 

(6) Mc 14,1-11. Việc những kẻ chống đối âm mưu hại Đức Giê-su (14,1-2) nối tiếp việc Giu-đa nộp Đức Giê-su (14,10-11). Phần chèn vào là trình thuật xức dầu thơm tại Bê-ta-ni-a (14,3-9).

 

Ý nghĩa lối hành văn chèn vào được minh hoạ qua đoạn văn Mc 5,21-43. Hai câu chuyện được kể lồng vào nhau như sau:

A. 5,21-24: Đức Giê-su đi cứu con gái ông Gia-ia

            B. 5,25-34: Chữa người đàn bà bị băng huyết

A’. 5,35-43: Tiếp tục câu chuyện cứu con gái ông Gia-ia

 

Hai trình thuật lồng vào nhau này có những điểm giống nhau thú vị. Người đàn bà bị băng huyết đã 12 năm, thì con gái ông Gia-ia 12 tuổi. Cả hai đều là phái nữ; cả hai đều ở trong tình trạng hiểm nghèo và được bản văn nhấn mạnh (Mc 5,23 cho biết con gái ông Gia-ia gần chết; Mc 5,26 cho biết bệnh tình tệ hại của người đàn bà bị băng huyết).

 

Cả hai câu chuyện đều có ý tố “công khai” (public) và “riêng tư” (privé) nhưng ngược nhau. Người đàn bà băng huyết đi từ chuyện “riêng tư” đến thú nhận “công khai” việc mình đã làm (5,30-33). Ngược lại, tại nhà ông Gia-ia, Đức Giê-su chuyển từ “công khai” giữa mọi người sang “riêng tư”, vì Người không cho phép ai đi theo Người, ngoại trừ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an (5,37).

 

Qua những điểm giống nhau như trên, hai câu chuyện soi sáng cho nhau ra sao? Trong mạch văn, khi Đức Giê-su đang trên đường đến nhà ông Gia-ia thì người nhà đến nói với ông: “Con gái của ông chết rồi, làm phiền Thầy nữa làm gì?” (5,35). Đức Giê-su thoáng nghe lời đó thì nói với ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần ông tin” (5,36).

 

Điều gì làm cho lời nói Đức Giê-su là đáng tin cậy? Câu chuyện người đàn bà bị băng huyết vừa được chữa lành cho thấy lời Đức Giê-su nói là lời đáng tin cậy. Đức Giê-su mời gọi ông Gai-ia “tin” (5,36) vì ngay trước Đức Giê-su đã nói với người đàn bà: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (5,34). Lòng tin của người phụ nữ đã cứu chữa bà ấy. Cũng một nguyên tắc ấy, Đức Giê-su nói với ông Gia-ia là “chỉ cần tin” (5,36) thì con gái ông sẽ được cứu.

 

Kiểu hành văn chèn như trên vào nhằm chuyển tải ý nghĩa liên kết với nhau trong hai câu chuyện. Độc giả cần tìm ra những điểm bổ túc và soi sáng lẫn nhau trong hai trình thuật để hiểu vai trò, sứ vụ và căn tính của Đức Giê-su.

 

Kết luận

 

Hiểu tác giả đang giao tiếp với độc giả qua một số kỹ thuật như: giải thích minh nhiên hoặc mặc nhiên, dịch nghĩa các từ khó hiểu, cách thức xây dựng câu chuyện và cách thức kể chuyện, giúp độc giả ngày nay hiểu được ý nghĩa bản văn. Những ý tưởng rút ra được từ bản văn có thể áp dụng vào hoàn cảnh của từng độc giả. Nhờ đó Lời Chúa trở thành lương thực bổ ích, với cách đọc này, độc giả ngày càng khám phá ra trong bản văn Tin Mừng Mác-cô có nhiều điều thú vị và ý nghĩa cho cuộc sống./.

 

 

Ngày 17 tháng 02 năm 2013.

Giuse Lê Minh Thông, O.P.

Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2013/02/tim-hieu-tin-mung-mac-co-tac-gia-giao.html

 

 

Lối hành văn CHÂM BIẾM và HÀI HƯỚC trong Kinh Thánh

Thành phố cổ Giê-ru-sa-lem ngày nay và địa điểm 14 đàng thánh giá
 

Nội dung:

 

I. Dẫn nhập

II. Châm biếm (ironie)

1) Ví dụ châm biếm lời nói

2) Châm biếm tình huống  (Mc 14,66-72)

III. Hài hước (humour)

1) Phê-rô chối Thầy (Mc 14,66-72)

2) Trừ quỷ ở Ghê-ra-sa (Mc 5,1-20)

3) Ngôn sứ Giô-na (Gn 2–3)

IV. Kết luận

I. Dẫn nhập

Một số trình thuật trong Kinh Thánh dùng lối hành văn châm biếm (ironie) và hài hước (humour) để chuyển tải mặc khải thần học. Đọc ra được những chi tiết hài hước và châm biếm giúp độc giả hiểu được ẩn ý mà người thuật chuyện muốn nói với độc giả, đồng thời qua đó, độc giả thưởng thức được những nét hay, nét đẹp, nét độc đáo của bản văn.

 

Cần phân biệt giữa châm biếm và hài hước. “Châm biếm là một câu nói sai để làm hiểu đúng, và không tìm kiếm tác dụng gây cười” (D. MARGUERAT; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, Initiation à l’analyse narrative, Paris – Genève, Le Cerf – Labor et Fides, 2004 [3e édition], p. 143). Ngược lại, hài hước nhắm đến yếu tố gây cười. Tuy nhiên, trong thực tế, hai yếu tố châm biếm và hài hước có thể đan xen vào nhau.

 

Phần sau sẽ trình bày một số ví dụ trong Kinh Thánh liên quan đến hai yếu tố châm biếm và hài hước:

1) Ê-li-a nói với các ngôn sứ giả trên đỉnh núi Các-men (1V 18,27).

2) Chuyện anh mù được thấy (Ga 9,27).

3) Đối thoại giữa Đức Giê-su và những người Pha-ri-sêu (Mc 7,6-9).

 

Đặc biệt sẽ phân tích chi tiết những yếu tố châm biếm và hài hước mang tính thần học trong các trình thuật:

1) Trình thuật Phê-rô chối Thầy (Mc 14,66-72).

2) Trình thuật Đức Giê-su trừ quỷ ở Ghê-ra-sa (Mc 5,1-20).

3) Câu chuyện ngôn sứ Giô-na (Gn 3–4).

 

II. Châm biếm (ironie)

Trong Kinh Thánh có hai loại châm biếm: “Châm biếm lời nói”(ironie verbale) và “châm biếm tình huống” (ironie situationelle).

1. Một số ví dụ châm biếm lời nói

a) “Châm biếm lời nói” điển hình là lời Ê-li-a nói với các ngôn sứ giả trên đỉnh núi Các-men: “Đến trưa, ông Ê-li-a chế nhạo họ rằng: ‘Kêu lớn tiếng lên, vì người là một vị thần mà. Người đang mải suy nghĩ, hay là đi vắng hoặc trẩy đường xa; có khi người đang ngủ, thì sẽ thức dậy thôi’” (1V 18,27). 

 

b) Lời châm biếm mạnh mẽ khác tìm thấy ở Ga 9,27. Anh mù được thấy nói với những người Do Thái và những người Pha-ri-sêu đang tra hỏi anh ta: “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không nghe. Tại sao các ông muốn nghe một lần nữa? Chẳng lẽ các ông cũng muốn trở thành những môn đệ của ông ấy?” (Ga 9,27). 

 

c) Ở Mc 7,6.9 xuất hiện trạng từ “kalôs” (tiếng Hy Lạp) có nghĩa là “đúng”, “một cách đúng đắn”, Trong đó, ở Mc 7,9, trạng từ kalôs có nghĩa châm biếm. Ở Mc 7,6: Đức Giê-su nói với những người Pha-ri-sêu: “I-sai-a đã nói tiên tri rất đúng (kalôs) về các ông, những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta ngoài môi, còn lòng chúng thì xa rời Ta’.” Đến Mc 7,9, Đức Giê-su nói với họ: “Đúng là (kalôs) các ông coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.” 

Từ “kalôs” ở 7,6 không có ý châm biếm, nhưng ở 7,9, Đức Giê-su châm biếm những người Pha-ri-sêu và các kinh sư: “họ làm đúng” (kalôs) nhưng thực sự là “làm sai”.

 

2. Châm biếm tình huống trong trình thuật Phê-rô chối Thầy.

Ở Mc 14,66-72, trình thuật Phê-rô chối Thầy là một điển hình về kiểu hành văn “châm biếm tình huống” (ironie situationelle). Những nét châm biếm trong câu chuyện được trình bày như sau:

 

1) Chính lúc Đức Giê-su xuất hiện trước quyền hành cao nhất là Thượng Hội Đồng và đang bị thượng tế tra hỏi (Mc 14,55-64), thì Phê-rô cũng xuất hiện trước quyền hành thấp nhất là một đứa trong bọn tớ gái và những người đang đứng sưởi trong sân dinh (Mc 14,66-72). Cũng như Đức Giê-su, Phê-rô cũng đang bị họ tra hỏi.

 

2) Hành động Phê-rô chối thầy như thể là Phê-rô đã không được báo trước. Cứ bình thường được báo trước thì sẽ tránh được. Như thế, người đọc nhận ra những thiếu sót của nhân vật Phê-rô trong bản văn:

- Đã xem thường lời cảnh báo của Đức Giê-su (14,30).

- Không sống lời Thầy dặn các môn đệ: “Nếu ai muốn đi theo sauTôi, hãy chối bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình và hãy đi theo Tôi” (8,34).

- Hình như Phê-rô đã quên điều chính mình đã quả quyết trước đó: “Dù con phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy (ou mê aparnêsomai)” (14,31).

 

Động từ “aparnêsomai” (chối bỏ, không thừa nhận, từ chối) xuất hiện 4 lần trong Tin Mừng Mác-cô (8,34; 14,30.31.72). Lần thứ 1, Đức Giê-su nói về: “Chối bỏ chính mình để theo Đức Giê-su” (8,34); lần thứ 2, Người báo trước Phê-rô sẽ chối Thầy 3 lần (14,30); lần thứ 3, Phê-rô quả quyết không chối bỏ Đức Giê-su (14,31); lần thứ 4, Phê-rô nhớ lại lời Đức Giê-su nói sau khi đã chối Thầy 3 lần (14,72). Như thế, lẽ ra Phê-rô nên “chối bỏ chính mình”, vác thập giá mình mà theo Thầy thì lại “chối bỏ Thầy” để không vác thập giá của mình.

 

(3) Châm biếm đạt tới cao điểm ở 14,71, câu chuyện kể: “Nhưng ông ấy bắt đầu thốt lên những lời độc địa và thề rằng: ‘Tôi không biết người mà các ông nói’.” Sự giả dối kèm theo “những lời độc địa và thề” của Tông Đồ trưởng Phê-rô, người thuộc nhóm ba môn đệ được Đức Giê-su tách riêng ra (Phê-rô, Gio-an, Gia-cô-bê) để chứng kiến những biến cố đặc biệt, cho thấy Phê-rô đang ở điểm thấp nhất trong hành trình làm môn đệ Đức Giê-su.

 

Những nét tương phản cho thấy hành động và lời nói chối bỏ Thầy của Phê-rô là rõ ràng và quả quyết, lối hành văn châm biếm làm cho hành động của Phê-rô càng được tô đậm. Khi tác giả kể về nhân vật Phê-rô như thế là nhằm gửi đến độc giả một sứ điệp. Cụ thể, trong cộng đoàn Mác-cô có thể một số thành viên, trong hoàn cảnh bị bách hại, đã chối bỏ Thầy. Như thế, những châm biếm nơi nhân vật Phê-rô là để độc giả nhận ra mình đang ở đâu trong hành trình làm môn đệ Đức Giê-su.

 

III. Hài hước (humour)

1. Hài hước trong trình thuật Phê-rô chối Thầy.

Cũng trong trình thuật Phê-rô chối Thầy (Mc 14,66-72), câu chuyện làm lộ ra những ý tưởng hài hước mang tính thần học. Trong câu chuyện, Phê-rô đã chối Thầy ba lần, tuy nhiên, ở góc nhìn khác, độc giả nhận ra rằng “lời nói dối” của Phê-rô cũng là “lời nói thật”. Đó là sự thật sâu xa: Đúng như Phê-rô đã nói, thực sự Phê-rô chưa biết Đức Giê-su là ai.

 

Thực vậy, ở cấp độ thứ nhất Phê-rô đã nói dối khi khẳng định rằng: “Tôi không biết Đức Giê-su là ai”. Vì Phê-rô là môn đệ của Đức Giê-su, là Tông Đồ trưởng nên biết rõ Đức Giê-su. Nhưng “lời nói dối” ở cấp độ thứ nhất này lại trở thành “lời nói thật” ở cấp độ thứ hai. Quả thế, ở cấp độ ý nghĩa thần học của động từ “biết”, Phê-rô không nói dối mà là nói đúng sự thật. Bởi vì khi chối bỏ Thầy, Phê-rô thực sự chưa biết Thầy, Phê-rô thực sự chưa biết Đức Giê-su là ai (xem D. MARGUERAT; Y. BOURQUIN, Pour lire les récits bibliques, p. 145).

 

Ý tưởng “nói dối” mà là “nói thật”. Phê-rô chối là “không biết” Đức Giê-su, nghĩa là “biết” Người, mà thực sự lại là “không biết” Người. Những tương phản này là yếu tố hài hước gây cười có ý nghĩa thần học sâu xa cho độc giả. Lối hành văn trên cho phép độc giả rút ra hai bài học quý giá: 


1) Khi người tin chối bỏ Đức Giê-su vì bất cứ lý do nào, thì người đó chưa thực sự biết Đức Giê-su.

2) Nếu thực sự biết Đức Giê-su là ai thì sẽ không thể chối bỏ Người. Chính Phê-rô đã chứng minh điều đó, Phê-rô đã chịu chết tử đạo để theo Thầy và để tôn vinh Thiên Chúa (Ga 21,19).

 

Yếu tố hài hước được xây dựng trong trình thuật qua những tương phản bất ngờ, chơi chữ… với điểm nhắm là chính độc giả. Thực ra, người thuật chuyện đang mời gọi độc giả đọc ra được nét hài hước nơi nhân vật trong câu chuyện để nhìn lại lựa chọn và cách xử sự của mình. 

 

2. Hài hước trong trình thuật trừ quỷ ở Ghê-ra-sa 

Hài hước (humour) trong trình thuật quỷ và đàn heo ở Ghê-ra-satrong Mc 5,1-20 có khả năng chuyển tải những khẳng định thần học liên quan đến căn tính của Đức Giê-su. Đây là trình thuật dân gian có nhiều nét ấn tượng, qua đó bày tỏ uy quyền của Đức Giê-su với những chi tiết hài hước như sau:

 

1) Trước hết, cuộc đối đầu giữa “một mình Đức Giê-su” với “một đạo binh” quỷ (5,9) đã trở thành một cuộc thương lượng, trả giá và mặc cả. Thực vậy, lời Đức Giê-su nói với người bị quỷ ám: “Thần ô uế kia, hãy xuất khỏi người này” (5,8), làm nẩy sinh một vấn đề khác: Quỷ xuất ra rồi thì đi đâu? Quỷ đi bước trước bằng cách “khẩn khoản nài xin Người để Người không đuổi chúng ra khỏi vùng ấy” (5,10).

 

2) Thứ đến, người thuật chuyện cho biết ở đó có đàn heo rất đông đang ăn. Chi tiết này cho thấy đây là vùng đất dân ngoại, vì đối với người Do Thái heo là động vật ô uế. “Đàn heo ô uế” song song với “đạo binh thần ô uế” là yếu tố hài hước, gây cười.

 

3) Sau cùng, về hình thức, Đức Giê-su không đuổi đạo binh quỷ ra khỏi vùng, vì khi chúng xin nhập vào đàn heo để được ở lại trên vùng đất ấy, “Đức Giê-su cho phép chúng làm điều chúng xin” (5,13). Lần đầu tiên quỷ xin Đức Giê-su và Người ban cho chúng điều chúng xin!

 

Nhưng sau đó, một cảnh tượng đảo ngược hoàn toàn đã xảy ra: “Các thần ô uế  xuất ra, và nhập vào bầy heo. Cả bầy lao từ trên sườn núi xuống Biển Hồ, khoảng chừng hai ngàn con, và chết ngộp dưới Biển Hồ” (5,13). Quỷ xin được “ở lại” nhưng đã phải “ra đi”… ra đi về bên kia thế giới, ra đi về với Biển, biểu tượng cho nơi ở của thế lực tối tăm.

 

Như thế, những chi tiết tương phản hài hước: “Một mình Đức Giê-su” đương đầu với “một đạo binh quỷ”; “đạo binh thần ô uế” song song với “đàn heo đông đảo ô uế”; quỷ “năn nỉ” xin Đức Giê-su và Người “chấp nhận” lời xin của quỷ. Nhưng kết quả cuối cùng lại không như mong muốn của quỷ: Sau khi quỷ nhập vào đàn heo thì cả đàn heo nhào xuống biển chết. Nghĩa là quỷ mất chỗ cư trú trên trần gian.

Tóm lại, trong trình thuật đạo binh quỷ và đàn heo ở Mc 5,1-20,Đức Giê-su đã không làm gì

nhiều mà lại thắng lớn về ba điểm:

1) Quỷ xuất khỏi con người.

2) Đạo binh quỷ mất chỗ ở vì đàn heo đã chết.

3) Đàn heo ô uế theo nhãn quan Do Thái giáo cũng không còn.

Quỷ đã thành công khi Đức Giê-su nhận lời xin của chúng, nhưng thực ra chúng đã hoàn toàn thất bại, chúng mất cả, mất cả chì lẫn chài!

 

3. Hài hước trong câu chuyện ngôn sứ Giô-na

Trình thuật nổi tiếng hài hước tìm thấy trong sách Giô-na chương3–4.

Câu chuyện kể: “3Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. 4Ông Giô-na bắt đầu vào thành, đi một ngày đường và công bố: ‘Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ.’ 5Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ” (Gn 3,3-5).

 

Phần tiếp theo của câu chuyện có nhiều chi tiết hài hước:

1) Giô-na là ngôn sứ duy nhất trong Cựu Ước tức giận vì đã thành công khi rao giảng.

2) Thường các ngôn sứ của Thiên Chúa bị các vua Ít-ra-en ngược đãi, trong khi đó, vua thành Ni-ni-vê đã hối cải ngay từ những lời giảng đầu tiên.

3) Hài hước vì vua thành Ni-ni-vê ra chỉ thị cho cả súc vật, bò bê và chiên dê cũng ăn chay. Người và súc vật phải khoác áo vải thô và hết sức kêu cầu Thiên Chúa (Gn 3,7-8). Tại sao thú vật cũng phải ăn chay và khoác áo vải thô như người?

 

Qua những yếu tố hài hước, bản văn trình bày những mặc khải thần học độc đáo và mạnh mẽ:

1) Quan niệm thần học truyền thống bị đảo ngược. Thực vậy, theo quan niệm của Ít-ra-en, dân ngoại không phải là dân của Thiên Chúa. Bình thường, Thiên Chúa bảo vệ dân Ít-ra-en trước sự thù địch của dân ngoại, thì ở đây Thiên Chúa rủ lòng thương không phạt dân thành Ni-ni-vê, một thành phố dân ngoại.

2) Xem ra dân ngoại mau mắn tin vào Thiên Chúa hơn và biết nghe lời ngôn sứ hơn dân Ít-ra-en, dân của Thiên Chúa.

3) Qua các chi tiết lạ thường, quy luật thiên nhiên cũng bị đảo lộn, không theo quy luật tự nhiên nữa: Gió bão, Giô-na bị cá nuốt rồi được nhả ra trên bờ.

Có thể nói cách hài hước rằng: Không có gì bình thường trong sách Giô-na kể cả Thiên Chúa.

 

IV. Kết luận

Lối hành văn châm biếm và hài hước là một nét độc đáo và đặc sắc của một số trình thuật trong Kinh Thánh. Khi độc giả khám phá ra được những nét châm biếm và hài hước trong bản văn, độc giả đã hiểu được phần nào điều tác giả muốn nói với độc giả qua cách thức kể chuyện.

 

Phần lớn những nét châm biếm và hài hước trong Kinh Thánh đều mang tính thần học. Nghĩa là qua những chi tiết châm biếm và hài hước tác giả muốn nói với độc giả về một khía cạnh nào đó liên quan đến Thiên Chúa, liên quan đến niềm tin, cách sống và lựa chọn của con người khi đối diện với mặc khải của Thiên Chúa./.

 

Ngày 03 tháng 03 năm 2011. Giu-se Lê Minh Thông, O.P. 


http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/03/loi-hanh-van-cham-biem-va-hai-huoc.html 

 

 

Ý nghĩa các con số trong Sách Khải Huyền

 

 

 

 

Sau khi quan sát các con số qua bài viết “Những con số trong Sách Khải Huyền”, bài viết này trình bày ý nghĩa tổng quát các con số. Không phải tất cả các con số đều có nghĩa biểu tượng, vì thế khi áp dụng ý nghĩa các con số vào một câu văn cụ thể, cần quan sát bối cảnh văn chương và bối cảnh thần học của mạch văn để tìm ra cách hiểu thích hợp về các con số trong câu văn.

 

Phần sau sẽ trình bày ý nghĩa biểu tượng của các con số: “1/3 bị phá hại”, “1 giờ”, “42 tháng”, “1.260 ngày”, “1 thời, 2 thời và nửa thời”, “số 3”, “số 4”, “6 cánh”, “số 7”, “số 12”, “24 vị Kỳ Mục”, “1.000 năm”, “12.000 người”, “144.000 người”, “12.000 dặm”,“200.000.000 kị binh”, “Vạn vạn, ngàn ngàn”. Riêng mã số 666 hay 616, có nhiều cách giải thích con số này, nên được trình bày trong một mục riêng.

 

I. Ý nghĩa các con số

 

“1/3 (một phần ba)” là kiểu nói giảm nhẹ, theo nghĩa 1/3 bị thiêu huỷ, còn hai phần thì không. Hình phạt giáng xuống trên 1/3 loài người, còn hai phần ba được thoát khỏi. Qua kiểu nói 1/3, bản văn mời gọi độc giả sám hối để được cứu. 

 

“1 giờ” tượng trưng cho sự chóng qua, ngắn ngủi. Các vua chúa khóc than thành Ba-by-lon sụp đổ như sau: “Khốn thay, khốn thay, thành phố vĩ đại, Ba-by-lon, thành phố hùng cường, vì trong một giờ, án phạt dành cho ngươi đã đến” (Kh 18,19). Các trích dẫn lấy trong Sách Khải Huyền Hy Lạp – Việt.

 

42 tháng = 1.260 ngày (= 3 năm rưỡi), tương đương kiểu nói: “1 thời, 2 thời và nửa thời”. Những con số thời gian này gợi đến thời kỳ vua An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê đã bách hại người Do Thái ba năm rưỡi (Đn 7,25; 12,7). Những con số trên trong sách Khải Huyền biểu tượng cho cuộc bắt bớ các Ki-tô hữu trong một khoảng thời gian không kéo dài (Lc 4,25; Gc 5,17).

 

“Số 3” biểu tượng sự hoàn hảo. Thành Giê-ru-sa-lem mới được mô tả như sau: “Hướng đông ba cổng, hướng bắc ba cổng, hướng nam ba cổng và hướng tây ba cổng” (Kh 21,13). Trong câu này 3+3+3+3 = 12.

 

“Số 4” biểu tượng địa cầu, 4 hướng: đông, tây, nam, bắc; 4 hướng gió. 4 thiên sứ tượng trưng cho bốn thiên sứ cai quản thế giới. Tác giả Sách Khải Huyền kể: “Sau điều ấy, tôi thấy bốn thiên sứ đứng ở bốn phương của mặt đất, giữ lại bốn ngọn gió của đất để không ngọn gió nào thổi trên đất, trên biển cũng như trên mọi cây cối” (7,1).

 

“6 cánh” gợi đến các Xê-ra-phim trong Is 6,1-3: “1Năm vua Út-di-gia-hu băng hà, tôi thấy Chúa Thượng ngự trên ngai rất cao; tà áo của Người bao phủ Đền Thờ. 2Phía bên trên Người, có các thần Xê-ra-phim đứng chầu. Mỗi vị có sáu cánh: hai cánh để che mặt, hai cánh để che chân và hai cánh để bay. 3Các vị ấy tung hô với nhau rằng: ‘Thánh, Thánh, Thánh, ĐỨC CHÚA các đạo binh. Cả mặt đất đầy vinh quang của Người’.”

 

“số 7”, biểu tượng sự hoàn hảo, trọn vẹn. Chẳng hạn, thư gửi đến 7 Hội Thánh (1,4.11.20a.20b), với 7 hoàn cảnh khác nhau ám chỉ đến tất cả các Hội Thánh qua mọi thời đại. Trong lời tung hô ở Kh 7,12, liệt kê 7 đặc tính của Thiên Chúa: “A-men, lời chúc tụng, vinh quang, khôn ngoan, lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh thuộc về Thiên Chúa chúng ta đến muôn thuở muôn đời, a-men” nhằm diễn tả sự trọn hảo nơi Thiên Chúa.

 

“Số 12” ám chỉ 12 chi tộc Ít-ra-en, 12 Tông Đồ. Số 12 tượng trưng sự viên mãn, hoàn hảo.12 Tông Đồ của Con Chiên là nền móng của Hội Thánh. Con số 12 biểu tượng của Hội Thánh được dùng để mô tả Thành Giê-ru-sa-lem mới: 12 nền móng thành Giê-ru-sa-lem mới (21,14), 12 cổng, 12 viên ngọc trai (21,21).

 

“24 vị Kỳ Mục”, có lẽ ám chỉ 12 chi tộc Ít-ra-en (Cựu Ước) và 12 Tông Đồ (Tân Ước). Các vị “mặc áo trắng” và “đội triều thiên bằng vàng” (4,4) là biểu tượng của những kẻ chiến thắng. Tác giả Sách Khải Huyền mô tả: “Chung quanh ngai  hai mươi bốn ngai khác, và trên những ngai đó  hai mươi bốn vị Kỳ Mục đang ngồi, mìnhmặc áo trắng, và trên đầu của các vị có triều thiên bằng vàng” (4,4). Các chữ in nghiêng trong Kh 4,4 là không có trong tiếng Hy Lạp, xem quy ước trong trích đoạn Sách Khải Huyền Hy Lạp – Việt.

 

“1.000 năm” không hiểu theo nghĩa đen (10 thế kỷ) mà hiểu theo nghĩa tượng trưng: 1.000 năm chỉ một giai đoạn lâu dài (Đnl 7,9; Tv 105,8; 2Pr 3,8). Có thể hiểu 1.000 năm ở Kh 20,1-6 là giai đoạn hiện thời, kể từ lúc Đức Giê-su Phục Sinh cho đến nay. Trong giai đoạn này, Đức Giê-su đã ban tặng cho các Ki-tô hữu sự sống mới, sự sống đích thực, sự sống của Thiên Chúa (Kh 2,7; Ga 6,40; 20,31; Cl 2,12; 3,1.3).

 

“12.000 người” được đóng ấn (7,5) là số người cho mỗi chi tộc trong 12 chi tộc Ít-ra-en, đây là con số tượng trưng sự viên mãn, hoàn hảo.

 

“144.000 người” = 12 chi tộc x 12.000 người, chỉ “số sót” (những người còn sót lại) của dân Chúa và của Hội Thánh. Tác giả Sách Khải Huyền cho biết: “Rồi tôi nghe con số những người được đóng ấn: Một trăm bốn mươi bốn ngàn. Những người được đóng ấn thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en” (7,4).

 

“12.000 dặm”. Đây là số đo mỗi chiều (dài, rộng, cao) của thành Giê-ru-sa-lem mới (21,16): 12.000 dặm = 12 x 1.000. Trong đó, con số 12 là biểu thị dân Ít-ra-en mới và con số 1.000 chỉ sự đông đảo.

 

“200.000.000 kị binh” (9,16), dịch sát: “Một vạn lần hai vạn” = 10.000 x 20.000 = 200.000.000. Có lẽ con số này ám chỉ đạo quân kị binh người Pác-thy. Đây là một số quân quá lớn so với thực tế thời Sách Khải Huyền, vì thế, nên hiểu con số này theo nghĩa biểu tượng, diễn tả một sức mạnh vô cùng lớn.

 

“Vạn vạn, ngàn ngàn” (5,11) là kiểu nói diễn tả một số lượng rất lớn, không thể đếm xuể. Tác giả mô tả cảnh hùng vĩ trong thị kiến: “Tôi thấy, và tôi nghe tiếng của nhiều thiên sứ ở chung quanh ngai, các sinh vật và các Kỳ Mục. Số các thiên sứ là vạn vạn, ngàn ngàn” (5,11).

 

II. Ý nghĩa con số 666 và 616

 

Kh 13,18, nói đến mã số của Con Thú là con số 666, tác giả viết: “Ai có trí khôn hãy tính ra mã số của Con Thú, vì đó là mã số của một người, và mã số của người ấy là sáu trăm sáu mươi sáu” (Kh 13,18). Một số thủ bản Hy Lạp như C, Irmss viết con số đó là 616.(Xem ký hiệu các thủ bản trong NESTLE-ALAND, Novum Testamentum Graece, (27è édition), Stuttgart, Deutsche Bibelgesellschaft, 1996). Có lẽ dị bản con số 616 xuất hiện muộn thời hơn và đã sửa lại con số 666. Có thể giải thích hai con số 666 và 616 như thế nào? Có nhiều cách giải thích, nhưng tất cả đều ám chỉ các hoàng đế của đế quốc Rô Ma vào thế kỷ I. Điều này phù hợp với bối cảnh sách Khải Huyền: Các Ki-tô hữu bị bắt bớ vì không chấp nhận tôn thờ hoàng đế như một vị thần.

 

1. Hai cách hiểu mã số 666

 

1) Các mẫu tự Híp-ri và Hy Lạp tương đương với một con số. Con số 666 là mã số tên của hoàng đế Nê-rô. Tên Hy Lạp của hoàng đế: “NERON KAISAR”. Tên gọi này chuyển sang phụ âm Híp-ri: QSR NRWN, các con số tương ứng của mẫu tự Híp-ri: (200+60+100) + (50+6+200+50) = 666. (Xem bảng mẫu tự Híp-ri và Hy Lạp với con số tương ứng của từng mẫu tự ở cuối Sách Khải Huyền Hy Lạp – Việt).

 

2) Cách hiểu thứ hai là số 6 = 7-1. Số 7 biểu tượng sự hoàn hảo, vì thế, 7-1 = 6 là biểu tượng của sự không hoàn hảo. Số 6 lặp lại 3 lần làm thành 666 cho thấy Con Thú hoàn toàn không có sự hoàn hảo. Nó sẽ thất bại hoàn toàn và phải lãnh án phạt (Kh 19,20).

 

2. Bốn cách hiểu mã số 616

 

1) Tên gọi hoàng đế Nê-rô theo La Tinh: “NERO CAESAR” (hoàng đế năm 54–68), chuyển sang phụ âm Híp-ri: QSR NRW, các con số tương ứng của mẫu tự Híp-ri: (200+60+100) + (6+200+50) = 616.

 

2) Hoàng đế CALIGULA còn được gọi là GAIOS (hoàng đế năm 37–41). Tên gọi “GAIOS KAISAR” có các con số tương đương của mẫu tự Hy Lạp: (3+1+10+70+200) + (20+1+10+200+1+100) = 616. 

 

3) Danh xưng: “THEOS KAISAR” có các con số tương đương theo mẫu tự Hy Lạp: (9+5+70+200) + (20+1+10+200+1+100) = 616. Danh xưng “THEOS KAISAR” có nghĩa: “Hoàng đế Thiên Chúa”, danh xưng này áp dụng cho tất cả các hoàng đế  tự xưng mình là một vị thần, là Thiên Chúa.

 

4) Hoàng đế Đô-mi-xi-a-nô, tiếng La Tinh: DOMITIANUS CAESAR (hoàng đế năm 81–96), có ghi trên con ấn của mình ký hiệu: DC XVI, có nghĩa là trị vì (DC) năm thứ 16 (XVI). Nếu xem DC là con số La Mã, thì DCXVI = 500+100+10+5+1 = 616.

 

Ghi chú: Tên các hoàng đế Rô Ma, thế kỷ I và đầu thế kỷ II: Octavien Auguste (-27–+14), Tibère (14–37), Gaios Caligula (37–41), Claude (41–54), Néro (54–68), Galba (68), Vespasien (69–79), Titus (79–81), Domitien (81–96), Nerva (96–98), Trajan (98–117), Hadrien (117–138).

 

Kết luận

 

Ý nghĩa của các con số trên đây giúp hiểu nội dung mặc khải trong Sách Khải Huyền, không nên áp dụng ý nghĩa các con số cách máy móc. Hiểu các con số theo nghĩa nào còn tuỳ thuộc bối cảnh văn chương và bối cảnh thần học riêng của đoạn văn, cũng như bối cảnh văn chương và bối cảnh thần học chung của toàn bộ Sách Khải Huyền. Vì thế, cần áp dụng ý nghĩa các con số cách uyển chuyển và sáng tạo.

 

Chẳng hạn, khi bản văn mô tả “Con Mãng Xà có 7 đầu 10 sừng” (Kh 12,3), có thể hiểu bản văn ám chỉ sức mạnh của nó. Số 7 biểu tượng sự hoàn hảo: “7 đầu” nghĩa là rất khôn ngoan. 10 sừng (= 7 + 3 sừng), nói lên sức mạnh tàn phá lớn lao của nó, vì số 3 cũng biểu tượng sự hoàn hảo. Với sức mạnh như thế nó có khả năng “mê hoặc toàn thể địa cầu” (12,9). Tuy thế, sức mạnh và quyền năng của Thiên Chúa vẫn lớn hơn, cụ thể là một thiên sứ đã “Bắt lấy Con Mãng Xà và xích nó lại 1.000 năm...” (20,1-2).

 

Kiểu trình bày trên đề cao quyền năng và sức mạnh của Thiên Chúa. Qua những con số, bản văn vừa là lời cảnh báo về sức tàn phá của thế lực sự dữ, vừa là lời động viên các Ki-tô hữu trong hoàn cảnh khó khăn. Kết luận thần học có thể rút ra là: Dù thế lực sự dữ có mạnh mẽ tới đâu, cũng sẽ thất bại trước quyền năng của Thiên Chúa. Qua đó, các Ki-tô hữu được mời gọi kiên vững trong thử thách. Sách Khải Huyền mặc khải cho độc giả biết về quyền năng của Thiên Chúa, đồng thời thần học Sách Khải Huyền khẳng định: Chiến thắng chung cuộc thuộc về Thiên Chúa và thuộc về những ai trung tín với Người cho đến cùng. Tóm lại, ý nghĩa biểu tượng của các con số góp phần trình bày mặc khải./.

 

Ngày 23 tháng 10 năm 2011.

Giu-se Lê Minh Thông, O.P. 

http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/10/y-nghia-cac-con-so-trong-sach-khai.html